TS. Bùi Đức Hiếu, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, thị trường tín chỉ carbon trên thế giới hoạt động rất sôi động, ở khắp các châu lục. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, cách thức và thời điểm vận hành khác nhau.
Liên minh châu Âu là nơi triển khai thực hiện thị trường carbon sớm nhất trên thế giới, vận hành vào năm 2005, đến nay trải qua 5 giai đoạn. Thị trường Hàn Quốc vận hành thử nghiệm vào năm 2012, chính thức vào năm 2015 và trải qua 3 giai đoạn. Thị trường Trung Quốc vận hành thử nghiệm năm 2012 tại một vài tỉnh và chính thức trên toàn quốc từ năm 2022. Các nước, như Anh vào năm 2021, Nhật Bản vừa kết thúc thử nghiệm, vận hành chính thức từ 4/2023.
Trên thế giới có 3 hình thức thức vận hành thị trường carbon là bắt buộc, tự nguyện và tuân thủ theo Điều 6 Thỏa thuận Paris. Ngoài ra, có một hình thức không liệt vào 3 loại trên, tương đối đơn giản là mang lên sàn mua bán. Singapore đang thực hiện theo hình thức này.
Về giá tín chỉ carbon, theo TS. Bùi Đức Hiếu, ở hình thức tuân thủ theo Điều 6 Thỏa thuận Paris sẽ không có giá tín chỉ carbon. Giá tín chỉ carbon chỉ có ở hình thức thứ nhất và hình thức thứ hai, được định giá thông qua đấu giá hoặc mua bán trên sàn. Giá tín chỉ carbon hiện phụ thuộc vào cung và cầu, phụ thuộc vào tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, ngành, lĩnh vực phát thải. Tại Hàn Quốc, hiện giao dịch khoảng 5-6 USD/tín chỉ, Australia 25 USD, Trung Quốc 10 USD…
Về việc vận hành thử nghiệm sàn giao dịch tín chỉ carbon, TS. Bùi Đức Hiếu cho biết, trong các quốc gia kể trên ở khu vực châu Á chỉ có Hàn Quốc là sớm. Các quốc gia khác, như Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, hay các nước Nam Mỹ và nhiều nước khác cũng đang trong thời gian chuẩn bị vận hành như Việt Nam. Tức là, đặt mục tiêu đến năm 2025 vận hành thử nghiệm sàn giao dịch tín chỉ carbon, năm 2028 vận hành chính thức. Có thể có những quốc gia sẽ thúc đẩy lộ trình này lên sớm hơn 1-2 năm.
Thị trường carbon tuân thủ tại Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng. Các doanh nghiệp của Việt Nam đã trao đổi tín chỉ carbon trên thị trường carbon tự nguyện thế giới gần 20 năm trước. Trong bối cảnh chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế carbon thấp hướng tới nền kinh tế tuần hoàn trở thành xu thế tất yếu, việc xây dựng, vận hành và phát triển thị trường carbon trở thành công cụ ngày càng quan trọng.
Tính đến nay, Việt Nam đã có 150 dự án được cấp 40,2 triệu tín chỉ carbon và là một trong 4 nước có dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch đăng ký nhiều nhất. Việt Nam có tiềm năng lớn trong việc phát triển thị trường carbon năng động, chất lượng và hiệu quả.
Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế có độ mở lớn. Nếu chúng ta áp dụng sớm thị trường carbon, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp phải giảm phát thải, sẽ tác động lớn đến nền kinh tế. Mặc dù doanh nghiệp phải bỏ rất nhiều chi phí để chuyển đổi công nghệ, chuyển đổi theo hướng phát triển xanh nhưng đối với các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung thì không thể chậm hơn, cần phải chuyển đổi, nếu không sẽ tụt hậu với thế giới.
Về lợi ích vĩ mô, doanh nghiệp giảm phát thải, tham gia thị trường carbon là cùng Chính phủ để thực hiện cam kết quốc tế trong giảm phát thải. Đóng góp vào việc bảo vệ môi trường trước tác động của biến đổi khí hậu.
Tiếp đến, xét về lợi ích cũng như cơ hội, khi tham gia thị trường carbon, tài chính xanh chắc chắn sẽ làm tăng thương hiệu của doanh nghiệp, qua đó sẽ giúp doanh nghiệp có nhiều điểm cộng trong đàm phán, xuất khẩu sản phẩm.
Không chỉ vậy, thực hiện giảm phát thải cũng là cơ hội để chính doanh nghiệp thay đổi mô hình sản xuất, công nghệ. Qua đó tạo ra tín chỉ để bán ra thị trường, thu về lợi nhuận. Có thể ví dụ một doanh nghiệp điển hình trên thế giới đã tiên phong và có tầm nhìn dài là Tesla (Mỹ). Năm 2022, doanh nghiệp này bán tín chỉ carbon thu về 1,78 tỷ USD, chiếm 10% tổng lợi nhuận.
Nói về cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào phát triển nền kinh tế cacbon thấp, ông Nguyễn Quốc Khanh, Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TPHCM (HAWA) cho biết, Việt Nam có 14,2 triệu ha rừng, chiếm 42% diện tích đất nước, trong đó có 7 triệu ha trừng trồng sản xuất. Với diện tích rừng tự nhiên và trừng trồng sản xuất này, nếu biết quản trị hiệu quả, chứng minh được sự tăng trưởng sinh khối và giảm phát thải, thì đây chính là nguồn tín chỉ carbon dồi dào. Vừa qua Việt Nam đã nhận được hơn 41 triệu USD đầu tiên (tương đương với 10,3 triệu tín chỉ carbon) từ Ngân hàng Thế giới do chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng.
Do đó, theo ông Khanh, bên cạnh thách thức để doanh nghiệp gỗ tham gia vào thị trường carbon rất lớn thì cơ hội cũng không hề nhỏ mà còn tạo tiền đề để hướng đến phát triển kinh tế tuần hoàn.
Bởi vì, ngành gỗ được hưởng lợi từ xu hướng sử dụng các vật liệu gỗ thay thế cho cho các vật liệu có phát thải cao như kim loại, nhựa, bê tông... Bên cạnh đó, gỗ không chỉ được sử dụng nhiều trong sản phẩm nội thất như trước đây, mà sẽ có cơ hội lớn trong ngành xây dựng với mass timber (gỗ cấu kiện lớn). Ngoài ra, vật liệu từ gỗ cũng sẽ được dùng nhiều trong ngành năng lượng sinh khối tái tạo (renewable biomass energy), ngành tiêu dùng, bao bì... vì khả năng phát thải thấp, dễ phân hủy và tái chế.
"Với khả năng phát thải âm, ngành công nghiệp gỗ và đặc biệt là lâm nghiệp có thể đạt lượng tín chỉ carbon để giao dịch bù đắp cho các ngành công nghiệp khác", ông Khanh nhận định.
Mới đây, vào ngày 24/1/2024, trong khuôn khổ Hội nghị kêu gọi đầu tư vì phát triển tăng trưởng xanh TPHCM, ông Mani Mathukumara, Chuyên gia trưởng về kinh tế-môi trường của Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, để doanh nghiệp Việt Nam tham gia giao dịch thị trường tín chỉ carbon thế giới, trước tiên các doanh nghiệp phải có ý tưởng, dự án, sau đó mang dự án, ý tưởng này đến đơn vị để xác minh và các đơn vị này đồng thời cung cấp nguồn tài chính, đối tác để tham gia vào mua bán tín chỉ trên thị trường.
Hiện nay WB cũng đang thực hiện chức năng này và việc WB hợp tác và hỗ trợ TPHCM tạo cơ chế để có thể kết nối với các đơn vị xác minh cũng như kết nối cung cầu về tín chỉ carbon cũng sẽ là cơ hội tuyệt vời để các doanh nghiệp Việt nam tham gia vào thị trường tín chỉ carbon đầy tiềm năng này.
TS. Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển tài chính carbon (CODE) cho rằng, kinh tế xanh, kinh tế carbon, thị trường carbon... không chỉ còn là vấn đề môi trường, mà ngày nay nó đang trở thành xu hướng của thời đại kinh tế. Trong thời gian tới, việc minh bạch thông tin các báo cáo về phát thải, chỉ số carbon... chắc chắn sẽ mang tính bắt buộc. Ví dụ, khi doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán, bên cạnh báo cáo tài chính, doanh nghiệp sẽ phải có báo cáo về việc định lượng, kiểm kê toàn bộ số lượng phát thải khí nhà kính của mình.
Bên cạnh đó, chuyển đổi xanh là nguồn động lực mới cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Các tiêu chuẩn "xanh" đang được định hình và đẩy nhanh đi vào thực thi theo hướng gắn thương mại và đầu tư quốc tế với các tiêu chí về giảm phát thải carbon, phát triển bền vững, lao động và môi trường. Cùng với đó, các liên kết, sáng kiến mới gắn với các lĩnh vực xanh cũng đang được thúc đẩy mạnh mẽ.
Do đó, phát triển thị trường tài chính xanh, trong đó then chốt là thị trường carbon, sẽ là chìa khóa cho chuyển đổi xanh thành công. Đây là thời điểm then chốt để Việt Nam xác lập, không ngừng gia tăng vị thế trong các chuỗi giá trị xanh toàn cầu.
Để thực hiện được mục tiêu về phát triển bền vững, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản chiến lược quan trọng về tăng trưởng xanh và phát triển xanh, trong đó có lộ trình phát triển công cụ định giá carbon, đặc biệt là thị trường carbon tuân thủ. Trước tiên, Việt Nam dự kiến đẩy nhanh xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính; hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế và thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025.
Đại diện các tổ chức về môi trường quốc tế đã đánh giá, Chính phủ Việt Nam đã có sự chuẩn bị tương đối tốt từ khu vực công. Tuy nhiên, để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế carbon thấp cần chú trọng cách tiếp cận nhiều bên, tăng cường hợp tác giữa các ngành, các lĩnh vực, các cấp. Đặc biệt là đẩy mạnh sự tham gia của khu vực tư nhân, tạo điều kiện phát triển cung, cầu trong thị trường carbon.
Đồng thời, Việt Nam cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về carbon bảo đảm chất lượng, làm căn cứ xác định hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho các doanh nghiệp và nhấn mạnh sự cần thiết của việc kết hợp đa dạng, linh hoạt các phương thức, công cụ, như cơ chế phát triển sạch, cơ chế tín chỉ chung, thị trường bắt buộc và tự nguyện…
Minh Thi