In bài viết

Việt Nam giữ được đà tăng trưởng liên tục, trở thành điểm sáng của khu vực châu Á–Thái Bình Dương

(Chinhphu.vn) - Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động sâu sắc, Việt Nam vẫn duy trì được ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát và giữ được đà tăng trưởng dương liên tục, trở thành điểm sáng của khu vực châu Á–Thái Bình Dương. Đây là nhận định của PGS.TS. Bùi Quang Bình, Trường Đại học Kinh tế (Đại học Đà Nẵng) khi nói về bức tranh kinh tế của Việt Nam trong 5 năm qua.

23/10/2025 16:20
Việt Nam giữ được đà tăng trưởng liên tục, trở thành điểm sáng của khu vực châu Á–Thái Bình Dương- Ảnh 1.

Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng mạnh trong 5 năm qua - Ảnh: VGP/Nhật Anh

Điểm sáng trong bối cảnh khó lường của kinh tế thế giới

Theo PGS. TS Bùi Quang Bình, giai đoạn 2021–2025 là phép thử lớn đối với mọi nền kinh tế. Đại dịch COVID-19, xung đột Nga–Ukraine và cạnh tranh chiến lược Mỹ–Trung làm đứt gãy chuỗi cung ứng, lạm phát tăng cao và xu hướng bảo hộ thương mại lan rộng. Trong hoàn cảnh đó, Việt Nam vẫn duy trì được ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát và giữ được đà tăng trưởng dương liên tục, trở thành điểm sáng của khu vực châu Á–Thái Bình Dương.

Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn này đạt khoảng 6,3%/năm, cao hơn mức trung bình toàn cầu. Chính phủ đã điều hành chính sách tài khóa – tiền tệ linh hoạt, bảo đảm cân đối lớn, thúc đẩy đầu tư công và phát triển hạ tầng trọng điểm, tạo nền tảng cho phục hồi và tăng trưởng bền vững.

Theo ông, các điểm sáng đáng ghi nhận gồm thương mại và đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng mạnh, giúp Việt Nam trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2024 vượt 700 tỷ USD, trong khi vốn FDI giải ngân đạt hơn 23 tỷ USD/năm – mức cao nhất từ trước đến nay.

Việt Nam giữ được đà tăng trưởng liên tục, trở thành điểm sáng của khu vực châu Á–Thái Bình Dương- Ảnh 2.

PGS. TS Bùi Quang Bình - Ảnh: VGP

Hạ tầng chiến lược như cao tốc Bắc–Nam, sân bay Long Thành, năng lượng tái tạo và hạ tầng số được đầu tư đồng bộ, góp phần nâng cao năng lực kết nối và cạnh tranh quốc gia. Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi số và chuyển đổi xanh được thúc đẩy mạnh mẽ, môi trường chính trị – xã hội ổn định và niềm tin đầu tư được duy trì, tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn.

PGS. TS Bùi Quang Bình cho rằng, tổng thể giai đoạn 2021–2025 cho thấy Việt Nam đã chứng minh năng lực thích ứng và sức chống chịu đáng kể, song để duy trì tăng trưởng bền vững, nền kinh tế cần chuyển mạnh sang mô hình dựa trên năng suất, đổi mới sáng tạo và tự chủ công nghệ, qua đó nâng cao năng lực nội sinh và vị thế của nền kinh tế trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Triển khai đồng bộ các giải pháp cho ngắn hạn và trung hạn

PGS. TS Bùi Quang Bình cho rằng Việt Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp theo hai hướng: Ngắn hạn (2025–2026) và trung hạn (đến 2030).

Thứ nhất, trong ngắn hạn, trọng tâm là ổn định kinh tế vĩ mô và phục hồi sản xuất trong nước. Chính phủ cần tiếp tục điều hành chính sách tài khóa – tiền tệ linh hoạt, hỗ trợ có trọng tâm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt trong công nghiệp chế biến, nông nghiệp xuất khẩu và logistics. Cần mở rộng tín dụng sản xuất có kiểm soát rủi ro, giảm chi phí vốn và khuyến khích đầu tư tư nhân.

Việt Nam giữ được đà tăng trưởng liên tục, trở thành điểm sáng của khu vực châu Á–Thái Bình Dương- Ảnh 3.

PGS. TS Bùi Quang Bình cho rằng cần tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng quy mô, chuyển đổi số và liên kết với khu vực FDI - Ảnh VGP/Nhật Anh

Song song với đó, phải tái cơ cấu chuỗi cung ứng trong nước, phát triển công nghiệp hỗ trợ và nâng tỉ lệ nội địa hóa để giảm phụ thuộc nhập khẩu, nhất là trong bối cảnh xu hướng bảo hộ và tăng thuế ở các nền kinh tế lớn. Việc cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn cấp phép đầu tư và đẩy nhanh giải ngân đầu tư công cần được thực hiện quyết liệt. Đồng thời, số hóa hoạt động quản lý, thuế, hải quan và logistics giúp giảm chi phí giao dịch và hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn xanh, quy định carbon trong thương mại quốc tế.

Thứ hai, trong trung hạn, cần tập trung nâng cao năng lực nội sinh, tự chủ công nghệ và hoàn thiện thể chế phát triển khu vực tư nhân. "Chúng ta cần thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, khuyến khích đầu tư R&D và gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp – trường đại học – viện nghiên cứu. Cần có ưu đãi thuế, tín dụng, đất đai cho doanh nghiệp công nghệ cao, năng lượng sạch, vật liệu mới để tăng giá trị gia tăng nội địa. Đặc biệt, phải hoàn thiện thể chế thị trường minh bạch, cạnh tranh, bảo vệ quyền tài sản tư nhân và giảm chi phí tuân thủ", PGS. TS. Bùi Quang Bình khuyến nghị.

Bên cạnh đó, cần thực thi hiệu quả Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, triển khai Chương trình phát triển doanh nghiệp tư nhân quốc gia 2026–2030, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng quy mô, chuyển đổi số và liên kết với khu vực FDI. Bên cạnh đó, cần hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm công–tư, trung tâm đổi mới vùng và cơ chế chia sẻ rủi ro cho doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ. Đồng thời, tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực công nghệ, năng lượng, tài chính và logistics, kết hợp thu hút chuyên gia quốc tế.

"Việc chuyển trọng tâm từ "mở rộng quy mô" sang "tăng năng lực tự chủ và sáng tạo", cùng thể chế trao quyền – bảo vệ – khuyến khích khu vực tư nhân, sẽ là chìa khóa giúp Việt Nam nâng cao sức chống chịu, giảm rủi ro phụ thuộc và duy trì tăng trưởng bền vững hướng tới mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030", PGS.TS. Bùi Quang Bình trao đổi.

Nhật Anh