In bài viết

'Cánh đồng xanh, công nghệ sạch': Lúa chất lượng cao mở tương lai mới cho ĐBSCL

(Chinhphu.vn) - Triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp, Đồng bằng sông Cửu Long đã đạt nhiều kết quả vượt mong đợi: Giảm mạnh chi phí sản xuất, giảm phát thải từ 3,7–4,6 tấn CO2, năng suất tăng, thu nhập nông dân cải thiện rõ rệt. Những mô hình đầu tiên thành công đang mở đường để vùng lúa lớn nhất cả nước chuyển mình sang hướng “sản xuất xanh” bền vững và hiện đại.

21/11/2025 19:29
'Cánh đồng xanh, công nghệ sạch': Lúa chất lượng cao mở tương lai mới cho ĐBSCL- Ảnh 1.

Hội thảo “Giải pháp nhân rộng mô hình canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long - Ảnh: VGP/LS

Hoàn thành vượt chỉ tiêu giai đoạn đầu Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao

Sáng 21/12, tại Cần Thơ, Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Cần Thơ tổ chức Hội thảo “Giải pháp nhân rộng mô hình canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long”.

Phát biểu khai mạc, PGS.TS Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia, cho biết: Việc triển khai Đề án "Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp" đã ghi nhận những kết quả tích cực. Các chỉ tiêu giai đoạn đầu không chỉ hoàn thành vượt mức về mặt diện tích, mà quan trọng hơn là đã tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đối với ngành hàng lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

“Việt Nam đã đi đúng hướng, phù hợp với xu thế quốc tế là phát triển xanh, thân thiện và bảo vệ môi trường trong kỷ nguyên xanh”, TS. Thanh nhấn mạnh.

Theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia, Đề án giúp giảm phát thải từ 3,7-4,6 tấn phát thải CO2, một con số được đánh giá là rất ấn tượng. Nhờ đó, gạo giảm phát thải của Việt Nam đã được xuất khẩu sang Nhật Bản, được doanh nghiệp và người tiêu dùng tại thị trường “khó tính bậc nhất” này quan tâm, đánh giá cao.

Trên đà đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường dự kiến tổ chức “Hội nghị xúc tiến đầu tư, hợp tác công nghệ với Nhật Bản trong phát triển vùng lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, với sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam, Nhật Bản, các nhà khoa học và nông dân, nhằm mở rộng chuỗi hợp tác lúa gạo chất lượng cao, phát thải thấp. Bộ cũng đã ban hành quy trình đo đạc MRV phục vụ sản xuất trong vùng dự án 1 triệu ha lúa.

Đề án còn thu hút được sự tham gia rộng rãi của cộng đồng: Nông dân, doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế và nhà nước. Câu lạc bộ Chuyên gia nông nghiệp ĐBSCL đã được thành lập, cho thấy sức hấp dẫn của Đề án, cũng như tâm huyết của đội ngũ chuyên gia với vùng đất “nặng nghĩa tình” này.

PGS.TS Lê Quốc Thanh nhấn mạnh, những kết quả bước đầu này là cơ sở, tiền đề then chốt để phát triển mạnh mẽ chuỗi giá trị lúa gạo chất lượng cao, gắn liền với mục tiêu tăng trưởng xanh đúng như kỳ vọng của Chính phủ và người dân.

Đồng thời, ông khẳng định tính tiên phong của Việt Nam khi cho biết, đây là Đề án lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp đầu tiên trên thế giới được triển khai ở quy mô lớn như vậy.

Từ các mô hình thí điểm: Giảm chi phí, tăng thu nhập 

Tại hội thảo, các chuyên gia tập trung chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, bài học thành công, những khó khăn trong tổ chức sản xuất, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp kỹ thuật, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, cơ chế chính sách và hợp tác công tư.

Ông Hoàng Tuyển Phương, Trưởng phòng Khuyến nông Trồng trọt và Lâm nghiệp (Trung tâm Khuyến nông quốc gia), cho biết Trung tâm đã phối hợp với Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật (Bộ NN&MT), Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế, Sở NN&MT các địa phương và đơn vị liên quan triển khai 7 mô hình thí điểm tại TP. Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp, Kiên Giang trong năm 2024 - 2025.

Sau 3 vụ triển khai, các mô hình đã đạt 5.000 ha, mang lại những kết quả cụ thể: Giảm chi phí sản xuất từ 8,2 - 24,2% so với mô hình đối chứng; giảm 30 - 50% lượng giống gieo sạ; giảm từ 30 - 70 kg phân bón/ha; giảm 30 - 40% lượng nước tưới; giảm 1 - 4 lần phun thuốc bảo vệ thực vật.

Về hiệu quả kinh tế, năng suất lúa tăng 2,4 - 7%, còn thu nhập của nông dân tăng từ 12 - 50%, tương ứng 4 - 7,6 triệu đồng/ha so với mô hình đối chứng.

Về môi trường, những mô hình này giảm phát thải khí nhà kính từ 2,0 - 12,0 tấn CO2/ha so với phương thức canh tác truyền thống, đồng thời khắc phục tối đa tình trạng đốt rơm rạ sau thu hoạch, góp phần giảm ô nhiễm và bảo vệ môi trường.

Khuyến nông cộng đồng: “Cánh tay nối dài” đưa công nghệ xuống ruộng

Để nhân rộng mô hình canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp, ông Hoàng Tuyển Phương cho biết thời gian tới, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia sẽ triển khai lực lượng khuyến nông cộng đồng (KNCĐ).

Hiện ĐBSCL có 1.000 tổ KNCĐ với 10.000 thành viên. Lực lượng này giữ vai trò then chốt trong truyền thông, nâng cao nhận thức của nông dân và xã viên HTX; tham gia đào tạo, tăng cường năng lực cho nông dân và HTX; chuyển giao quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp thông qua đào tạo, tập huấn.

KNCĐ còn đảm nhiệm hoạt động MRV (đo đạc, báo cáo, thẩm định khí phát thải nhà kính); tư vấn, hỗ trợ HTX tổ chức sản xuất, phát triển vùng nguyên liệu lúa bền vững; kết nối doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm đầu ra.

Nhờ mạng lưới này, các tiến bộ kỹ thuật và quy trình canh tác mới không chỉ dừng lại ở hội thảo hay mô hình trình diễn, mà có thể được nhân rộng nhanh chóng đến từng cánh đồng, từng hộ nông dân trong vùng.

'Cánh đồng xanh, công nghệ sạch': Lúa chất lượng cao mở tương lai mới cho ĐBSCL- Ảnh 2.

Ký kết hợp tác chiến lược giữa Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế - Ảnh: VGP/LS

Hợp tác công tư và nền tảng số: Lấp “khoảng trống” để sản xuất lúa bền vững

Trình bày bức tranh tổng thể về hợp tác công tư (PPP) trong thúc đẩy chuyển đổi sản xuất lúa gạo, ông Robert Caudwell - Trưởng đại diện Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) Việt Nam, đã chỉ ra ba "nút thắt" lớn đang kìm hãm sự phát triển bền vững.

Thứ nhất là rào cản trong tiếp nhận và nhân rộng công nghệ do chi phí cao và thiếu hỗ trợ kỹ thuật. Thứ hai là hạn chế về năng lực và kiến thức, đòi hỏi hệ thống khuyến nông phải cải tiến mạnh mẽ để nâng cao hiệu quả đào tạo. Thứ ba là sự thiếu hụt trong liên kết thị trường, làm suy giảm động lực sản xuất của người nông dân.

Không dừng lại ở việc nhận diện thách thức, IRRI và Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã phối hợp xây dựng các giải pháp khoa học dựa trên thực tiễn. Kết quả là sự hình thành của những cánh đồng mẫu tại ĐBSCL với sự khác biệt rõ rệt về năng suất, hiệu quả kinh tế và tác động môi trường.

Để nhân rộng thành công này, IRRI kiến nghị cần tăng cường hợp tác công tư tích hợp trong chuỗi giá trị lúa gạo; phát triển nền tảng số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong khuyến nông; xây dựng hệ thống dữ liệu minh bạch, được kiểm chứng. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện chính sách hỗ trợ tài chính và ưu tiên nguồn lực cho nghiên cứu, phát triển (R&D).

Theo ông Robert Caudwell, những yếu tố trên là "mắt xích" then chốt để các mô hình lúa chất lượng cao, phát thải thấp không chỉ dừng lại ở phong trào nhất thời, mà sẽ trở thành chuẩn mực sản xuất mới trên toàn vùng.

Trong khuôn khổ tọa đàm, Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) và Trung tâm Khuyến nông quốc gia (TTKNQG) đã chính thức ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác chiến lược 5 năm. Đây được xem là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng nền tảng phát triển bền vững cho ngành lúa gạo Việt Nam, đặc biệt là thực hiện Đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng ĐBSCL.

Theo thỏa thuận, hai bên sẽ phát triển ứng dụng Khuyến nông điện tử “Lúa Việt” tích hợp ứng dụng Bón phân đúng (Rice Crop Manager) nhằm tối ưu hóa hiệu quả sử dụng phân bón, giảm thiểu tác động môi trường, đồng thời nâng cao năng suất, chất lượng lúa gạo.

Lê Sơn