Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng: Nhiệm kỳ 2025-2030, toàn ngành xác định đây là giai đoạn quan trọng để ngành Nông nghiệp và Môi trường vững vàng bước vào Kỷ nguyên vươn mình, thịnh vượng, giàu mạnh của dân tộc
Nhân dịp Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ I, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ phỏng vấn Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng về những dấu ấn tiêu biểu của ngành trong nhiệm kỳ qua cũng như định hướng, mục tiêu phát triển trong giai đoạn 2025-2030.
Đồng chí Trần Đức Thắng: Nhiệm kỳ 2020-2025 là một giai đoạn đặc biệt khó khăn và đầy thách thức. Thế giới chứng kiến chuỗi cung ứng lương thực, thực phẩm toàn cầu bị đứt gãy do dịch bệnh COVID-19; cùng với đó là những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu gây ra các hình thái thời tiết hết sức cực đoan, như hạn hán, xâm nhập mặn kéo dài, lũ lụt, bão, sụt lún, sạt lở… làm tổn thất nghiêm trọng đến năng suất, sản lượng cây trồng, thủy sản và hệ sinh thái nông nghiệp. Xung đột Nga - Ukraine kéo dài từ năm 2022 cũng tạo cú sốc lớn, đẩy giá nông sản leo thang. Trong nước, chúng ta phải đối mặt với tác động kép của biến đổi khí hậu và dịch bệnh; lại thêm biến động thị trường, biến chuyển xu hướng tiêu dùng… tạo ra những thách thức chưa từng có cho nền kinh tế nói chung và ngành Nông nghiệp và Môi trường nói riêng.
Tuy nhiên, nhờ sự quan tâm sâu sát lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự chung sức đồng lòng của cả hệ thống chính trị, sự vào cuộc của doanh nghiệp, người dân; toàn ngành với ý chí, khát vọng và tinh thần đoàn kết, kỷ cương, trách nhiệm đã nỗ lực vươn lên vượt bậc để phát triển toàn diện. Toàn ngành đã tập trung chỉ đạo thúc đẩy cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng sinh thái, xanh, bền vững, chất lượng và giá trị gia tăng cao; nhờ đó nông nghiệp liên tục phát huy vai trò "trụ đỡ" của nền kinh tế, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và an ninh lương thực quốc gia, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành sớm mục tiêu đề ra, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao đời sống người dân. Dịch vụ, du lịch nông nghiệp, nông thôn phục hồi và phát triển nhanh sau dịch bệnh Covid-19 đã thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, chuyển dịch theo hướng hiện đại; khai thác thế mạnh kinh tế biển, kinh tế lâm nghiệp với giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng.
Nông nghiệp liên tục phát huy vai trò "trụ đỡ" của nền kinh tế, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và an ninh lương thực quốc gia, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế
Một trong những điểm sáng rõ nét nhất là việc ngành Nông nghiệp và Môi trường đã hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu đề ra. Cụ thể, 9/9 chỉ tiêu về nhiệm vụ chính trị đặt ra từ đầu nhiệm kỳ 2020-2025 đều đã đạt được. Đặc biệt, nhiều chỉ tiêu còn vượt xa mục tiêu ban đầu: Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành nông nghiệp dự kiến đạt 3,7%/năm (vượt, kế hoạch 2,5 - 3%/năm), năm 2025 tăng trưởng GDP toàn ngành phấn đấu đạt 4%. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng trên 8,4%/năm (vượt, kế hoạch 5 - 6%/năm), năm 2025 dự kiến đạt trên 65 tỷ USD. Hoàn thành chỉ tiêu 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; tỷ lệ che phủ rừng năm 2025 đạt 42,03% (vượt, kế hoạch 42%). Tỷ lệ Khu công nghiệp (KCN) có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt 92,3% (vượt, kế hoạch 92%). Bên cạnh đó, toàn bộ các chỉ tiêu về công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 2020 - 2025 đều đạt 100% so với mục tiêu trong Nghị quyết Đại hội.
Toàn ngành cũng đã tập trung vào các khâu đột phá chiến lược. Trong đó, xây dựng, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế là điểm sáng nổi bật. Trong giai đoạn 2020-2024, Ban cán sự Đảng của hai Bộ trước đây và Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ hiện nay đã tham mưu ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị, chiến lược quan trọng, tạo lập hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ, xử lý "điểm nghẽn" và khơi thông nguồn lực phát triển.
Mới đây là thể chế hóa các quan điểm, định hướng, nhiệm vụ, giải pháp tại bốn Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị ("bộ tứ trụ cột"), các Nghị quyết về văn hóa, y tế, giáo dục… để khơi thông nguồn lực, tạo động lực mới cho tăng trưởng, phát triển ngành.
Đồng thời, ngành đã quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai các chủ trương, định hướng về công tác tổ chức, cán bộ, tinh gọn bộ máy và cải cách hành chính. Đặc biệt, việc hợp nhất hai Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên và Môi trường thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường theo Nghị định số 35/2025/NĐ-CP ngày 25/02/2025 là một quyết sách lịch sử, tạo nền móng pháp lý vững chắc cho sự phát triển của ngành.
Bên cạnh đó, tập trung đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn hiện đại, đồng bộ, nâng cao chất lượng phục vụ sản xuất và đời sống. Hạ tầng số, nền tảng số, cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp và môi trường được triển khai, hỗ trợ hiệu quả công tác chỉ đạo điều hành và giải quyết thủ tục hành chính.
Những thành tựu này là minh chứng cho sự đoàn kết, chủ động, đổi mới sáng tạo của toàn ngành, sự chung sức, đồng lòng của địa phương, doanh nghiệp và người dân, góp phần quan trọng vào thành quả chung phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng liên tục trong 5 qua.
Đồng chí Trần Đức Thắng: Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII được xem là dấu mốc quan trọng, khẳng định rõ vai trò "nông nghiệp là lợi thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế". Văn kiện này đặt ra mục tiêu phát triển toàn diện nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn 2045 - coi đây là nền tảng cho ổn định xã hội và phát triển bền vững đất nước.
Nghị quyết nhấn mạnh yêu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng tích hợp đa giá trị, gắn sản xuất với chế biến, dịch vụ và thị trường tiêu thụ; đồng thời đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, cơ giới hóa, chuyển đổi số, hình thành các chuỗi giá trị nông sản hiện đại. Với định hướng đó, nông nghiệp Việt Nam không chỉ là "tấm đệm an sinh" trong giai đoạn khó khăn, mà đang trở thành động lực tăng trưởng mới, góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng sống của hàng chục triệu nông dân.
Môi trường không còn là “hậu phương” của tăng trưởng, mà đã trở thành trụ cột song hành, gắn chặt với mọi chiến lược phát triển quốc gia.
Cùng với kinh tế và xã hội, môi trường luôn được xác định là một trong ba trụ cột phát triển bền vững của quốc gia. Tư tưởng đó được thể hiện xuyên suốt từ Nghị quyết 41-NQ/TW (2004) của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đến Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, khẳng định phát triển hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
Quan điểm này được thể chế hóa trong Luật Bảo vệ môi trường 2020, nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm và tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững". Như vậy, môi trường không còn là "hậu phương" của tăng trưởng, mà đã trở thành trụ cột song hành, gắn chặt với mọi chiến lược phát triển quốc gia.
Trong giai đoạn 2021-2025, ngành nông nghiệp Việt Nam chứng kiến những bước tiến vượt bậc: cơ cấu lại sản xuất theo hướng thị trường, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm có giá trị cao như thủy sản, rau, hoa, quả, cây công nghiệp, đồ gỗ và lâm sản ngoài gỗ. Nhiều vùng sản xuất tập trung, ứng dụng công nghệ cao, đạt chuẩn GlobalGAP, VietGAP được hình thành.
Trồng trọt chuyển dịch mạnh, gần 478 nghìn ha lúa kém hiệu quả được chuyển sang cây trồng và nuôi trồng khác cho giá trị kinh tế cao hơn. Năng suất lúa vẫn duy trì mức tăng 2%/năm, đưa sản lượng lúa năm 2024 đạt 43,5 triệu tấn, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực. Chăn nuôi phát triển theo hướng công nghiệp, an toàn sinh học, hữu cơ. Năm 2024, tổng sản lượng thịt hơi đạt 8,3 triệu tấn, tăng hơn 28% so với năm 2020. Lâm nghiệp gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường: diện tích trồng rừng mới hơn 260 nghìn ha/năm, thu từ dịch vụ môi trường rừng đạt gần 3.700 tỷ đồng/năm, góp phần bảo vệ hơn 7,3 triệu ha rừng. Thủy sản phát triển mạnh, sản lượng năm 2024 đạt 9,6 triệu tấn, tăng 16,4% so với năm 2020, trong đó nuôi trồng chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Nhiều địa phương đẩy mạnh khai thác xa bờ, chống khai thác IUU, nâng cao giá trị sản phẩm thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
Đồng thời, bất chấp khó khăn toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2024 đạt 62,5 tỷ USD, mức cao kỷ lục, thặng dư thương mại 17,9 tỷ USD. Các mặt hàng tỷ USD như gạo, cà phê, trái cây, gỗ, thủy sản tiếp tục duy trì vị thế trên thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU. Cùng với đó, chương trình "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP) có trên 16.500 sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên, góp phần định hình thương hiệu nông sản Việt.
Chương trình Xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả toàn diện: đến giữa năm 2025, có 79,3% xã đạt chuẩn, 24 tỉnh đạt 100% xã nông thôn mới. Thu nhập nông dân tăng mạnh, bình quân đạt 55 triệu đồng/năm, tỷ lệ nghèo giảm còn 1,93%, phản ánh hiệu quả của chính sách tam nông.
Bên cạnh đó, ngành cũng tập trung quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, chủ động ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Trong đó, Luật Đất đai 2024, Luật Tài nguyên nước 2023, Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 được ban hành đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho quản lý tài nguyên thiên nhiên minh bạch, bền vững. Hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia hoàn thiện, kết nối toàn quốc; 11 quy trình vận hành liên hồ chứa đảm bảo an ninh nguồn nước; điều tra khoáng sản đạt 70% diện tích đất liền và 40% vùng biển Việt Nam, đóng góp 5.000 tỷ đồng/năm cho ngân sách.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cùng các chiến lược quốc gia đến năm 2050 về biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí metan, phát triển thị trường carbon khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong mục tiêu "Net Zero 2050"; Đến năm 2025, tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị đạt 95%, diện tích rừng tự nhiên được bảo vệ phục hồi trên 4 triệu ha, và khu bảo tồn thiên nhiên chiếm trên 7,5% lãnh thổ.
Công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn (KTTV) được hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu phát triển và phòng chống thiên tai. Độ tin cậy trong dự báo bão, mưa lớn, rét đậm, lũ lụt, nắng nóng, dông sét, sạt lở đất được nâng lên rõ rệt; Quản lý, khai thác công trình thủy lợi có nhiều đổi mới. Các công trình được vận hành linh hoạt phục vụ đa mục tiêu, từ sản xuất, dân sinh đến phòng chống hạn, xâm nhập mặn và úng ngập. Công tác phòng chống thiên tai được triển khai đồng bộ, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách và tổ chức bộ máy từ Trung ương đến địa phương. Hệ thống đê điều được quản lý chặt chẽ, duy trì nền nếp, sẵn sàng ứng phó, bảo đảm an toàn trong mùa mưa lũ.
Ngoài ra, trong lĩnh vực công tác tổng hợp, đầu tư phát triển và quản lý tài chính của ngành được quan tâm đặc biệt. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế cũng được đẩy mạnh, đi vào chiều sâu và đạt nhiều kết quả quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Chúng ta đã chủ động thúc đẩy nhiều chương trình, hoạt động đối ngoại đa phương, hợp tác quốc tế với các tổ chức quốc tế, các đối tác song phương, đặc biệt là các nước láng giềng. Điều này không chỉ giúp tiếp cận các hỗ trợ kỹ thuật, khoa học, công nghệ, tri thức và các dòng vốn cho phát triển, mà còn phối hợp đàm phán, tháo gỡ kỹ thuật, mở cửa thị trường cho nhiều sản phẩm nông lâm thủy sản sang các thị trường lớn. Việt Nam từng bước trở thành một hình mẫu phát triển về phát thải carbon thấp, nông nghiệp xanh, đóng góp vào sự phát triển chung và cao hơn là bảo vệ sức khỏe, an ninh lương thực bền vững, chất lượng sống và an toàn, thịnh vượng.
Đặc biệt, toàn ngành đã thúc đẩy mạnh mẽ nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, và đẩy mạnh chuyển đổi số. Đảng ủy Bộ xác định khoa học và công nghệ là giải pháp đột phá về năng suất, chất lượng và nâng cao năng lực cạnh tranh, là động lực phát triển nông nghiệp xanh, sạch, thông minh. Ngành Nông nghiệp và Môi trường đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện 51 Chương trình, Kế hoạch quốc gia về các nội dung, nhiệm vụ của ngành. Ngành đã đầu tư và chỉ đạo hoạt động của 21 tổ chức khoa học và công nghệ (16 viện chuyên ngành và 05 viện quy hoạch) và 34 đơn vị đào tạo, cùng với 180 phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu. Đội ngũ cán bộ khoa học lớn với hơn 11.000 người tại các đơn vị thuộc Bộ đã được hình thành. Tới đây sẽ sắp xếp, cơ cấu lại toàn diện các tổ chức này theo Nghị quyết của Bộ Chính trị và theo Quy hoạch, Quyết định phê duyệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Bộ cũng đã ban hành 1.832 TCVN và 175 QCVN, cơ bản bao quát đầy đủ các chuyên ngành. Chuyển đổi số được tăng cường ứng dụng, triển khai xây dựng có hiệu quả Chính phủ số, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông và quản lý nhà nước chuyên ngành. Các hệ thống thông tin phục vụ người dân, doanh nghiệp thường xuyên được cập nhật, tương tác hiệu quả.
Tất cả những kết quả ấy cho thấy, nông nghiệp và môi trường không chỉ là hai ngành kinh tế - kỹ thuật, mà là hai trụ đỡ chiến lược bảo đảm cho đất nước phát triển hài hòa, bền vững, hướng tới tương lai xanh, thịnh vượng.
Bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm và tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững
Đồng chí Trần Đức Thắng: Nhiệm kỳ 2025-2030, toàn ngành xác định đây là giai đoạn quan trọng để ngành Nông nghiệp và Môi trường vững vàng bước vào kỷ nguyên vươn mình, thịnh vượng, giàu mạnh của dân tộc, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước, hướng tới tầm nhìn đến năm 2045. Với phương châm "Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đột phá - Phát triển", ngành Nông nghiệp và Môi trường đề ra 6 mục tiêu tổng quát:
(1) Xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa đồng thời phát triển nông nghiệp dựa trên lợi thế so sánh quốc gia theo hướng hiện đại có năng suất, chất lượng cao, hiệu quả, bền vững, có sức cạnh tranh cao thuộc nhóm dẫn đầu khu vực Đông Nam Á và Top 15 trên thế giới vào năm 2030. Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, kim ngạch xuất khẩu nông sản duy trì đà tăng trưởng cao, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước và sinh kế người dân.
(2) Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm phát thải khí nhà kính; có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững; ngăn chặn xu hướng gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường.
(3) Nâng cao đóng góp của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng Ngành thông qua các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ của các tổ chức khoa học công nghệ công lập và khu vực tư nhân. Đến năm 2030, đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng ngành ở mức trên 50%.
(4) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, huy động có hiệu quả nguồn lực quốc tế nhằm thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu của ngành nông nghiệp và môi trường; ứng phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống (lương thực, tài nguyên nước, khoáng sản, khí hậu, đa dạng sinh học…), đảm bảo lợi ích của Việt Nam trên trường quốc tế.
(5) Đến năm 2030, hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn cơ bản đồng bộ, hiện đại. Giải quyết căn bản nước sinh hoạt cho các đảo có đông dân cư; hoàn thiện đồng bộ hệ thống công trình điều tiết nước mặn, nước ngọt, tích trữ nước trên các lưu vực sông lớn; cân đối đủ nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội. Hoàn thành sửa chữa, nâng cấp các đập, hồ chứa nước hư hỏng, xuống cấp, thiếu năng lực phòng, chống lũ. Tập trung phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển tại các khu vực trọng điểm xung yếu.
(6) Phát huy tối đa tiềm năng, giá trị tài nguyên, không gian biển; chú trọng tài nguyên vùng bờ và sự kết nối giữa đất liền và biển; tạo lập cơ sở cho phát triển nhanh và bền vững kinh tế biển, góp phần hình thành, phát triển các ngành kinh tế biển vững mạnh, tạo nhiều sinh kế hiệu quả cho người dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên biển; từng bước đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Để đạt được những mục tiêu nêu trên, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã xác định tập trung thực hiện 4 đột phá chiến lược sau:
Thứ nhất, quyết liệt cải cách, hoàn thiện thể chế, pháp luật, khơi thông các điểm nghẽn, giải phóng mọi nguồn lực cho phát triển; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương; cải cách, đơn giản hóa tối đa thủ tục hành chính đảm bảo công khai, minh bạch. Tập trung xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành các luật sửa đổi, bổ sung các Luật về đất đai, Địa chất và Khoáng sản, Luật Bảo vệ môi trường và các luật quan trọng khác trong lĩnh vực Nông nghiệp và Môi trường.
Thứ hai, thúc đẩy đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phục vụ kiến tạo, phát triển ngành. Tập trung triển khai các cơ chế thử nghiệm, thí điểm vượt trội cho các mô hình sản xuất nông nghiệp; hoàn thành hệ thống cơ sở dữ liệu của ngành, trong đó quyết tâm hoàn thành cơ bản cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia trong năm 2025.
Thứ ba, tạo đột phá mạnh mẽ trong xây dựng hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, tài nguyên, môi trường đồng bộ, hiện đại, trong đó tập trung nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo và nâng cấp hạ tầng phòng, chống thiên tai; tăng cường các giải pháp khắc phục ô nhiễm môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển thủy lợi đa mục tiêu; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ nông lâm thủy sản, bảo vệ và phát triển rừng.
Thứ tư, tập trung phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao; tạo đột phá, chuyển biến mạnh trong công tác cán bộ, thu hút và trọng dụng nhân tài. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp thực sự tiêu biểu, nhất là người đứng đầu; Chú trọng xây dựng đội ngũ nhà khoa học, chuyên gia, đội ngũ doanh nhân, nông dân chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong giai đoạn phát triển mới của ngành.
Tôi tin tưởng rằng, với quan tâm sâu sát lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự chung sức đồng lòng của cả hệ thống chính trị, sự vào cuộc của doanh nghiệp, người dân, ngành Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục gặt hái nhiều thành công hơn nữa trong nhiệm kỳ 2025-2030, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 đề ra, khẳng định quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và hướng tới năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, hiện thực hóa tầm nhìn về một Việt Nam giàu mạnh, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc.
Trân trọng cảm ơn đồng chí!