
Hội thảo “Xây dựng cụm/trung tâm nông thôn mới phù hợp với bối cảnh hiện nay” - Ảnh: VGP/Thu Giang
Tuy nhiên, để mô hình này thực sự trở thành động lực phát triển, quá trình triển khai cần được nhìn nhận một cách thận trọng, dựa trên phân tích khách quan về điều kiện thực tế của từng vùng
Ngày 8/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức Hội thảo “Xây dựng cụm/trung tâm nông thôn mới phù hợp với bối cảnh hiện nay”.
Phân tích những yêu cầu đặt ra đối với phát triển nông thôn bền vững, TS. Nguyễn Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế xây dựng và Đô thị nhấn mạnh rằng các văn bản pháp luật hiện hành như Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn 2024, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới hay Quyết định 318 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra nhiều yêu cầu cụ thể về quy hoạch khu chức năng, nhất là các khu dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh tế nông thôn. Đây là nền tảng quan trọng để tổ chức lại không gian sản xuất, chế biến và dịch vụ ở nông thôn.
Tuy vậy, theo TS. Nguyễn Hồng Hạnh, một số quy định then chốt liên quan đến quản lý tài nguyên, bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học – những vấn đề được đề cao trong Nghị quyết 19-NQ/TW năm 2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, vẫn chưa được tích hợp đầy đủ trong hệ thống pháp luật. Điều này khiến việc áp dụng trên thực tế gặp nhiều hạn chế.
“Để quy hoạch nông thôn mới thực sự đồng bộ, nhất quán, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện chính sách trong thời gian tới”, TS. Hạnh nhấn mạnh.
TS. Nguyễn Hồng Hạnh cũng phân tích kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Nhật Bản – nơi chỉ 3% dân số làm nông nghiệp – vẫn duy trì nền nông nghiệp mạnh nhờ công nghệ cao và chuỗi giá trị khép kín. “Du lịch nông nghiệp” trở thành nguồn sinh kế mới cho cư dân nông thôn. Tại Hoa Kỳ, dù chỉ 0,7% lực lượng lao động làm nông nghiệp nhưng năng suất đạt mức cao nhờ mô hình trang trại gia đình kết hợp doanh nghiệp nông nghiệp lớn. Pháp lại chú trọng phát triển vành đai xanh và nông nghiệp đô thị, kết hợp cảnh quan với sinh thái ven đô, giúp mỗi vùng duy trì bản sắc riêng.
Từ những kinh nghiệm này, TS. Hạnh cho rằng quy hoạch nông thôn Việt Nam phải gắn với định hướng sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học – bởi các khu vực cần bảo tồn thiên nhiên hầu hết nằm tại nông thôn.
Bên cạnh đó, quy hoạch phải xác định rõ không gian sản xuất, chế biến, dịch vụ; thúc đẩy nông nghiệp thông minh và kinh tế nông thôn hiện đại; phân vùng chức năng khoa học để tránh chồng chéo giữa khu bảo tồn, khu du lịch, khu dân cư hiện hữu và khu phát triển mới.
TS. Nguyễn Hồng Hạnh cũng nhấn mạnh cần đổi mới quy trình lấy ý kiến cộng đồng theo hướng thực chất, tăng mức độ tham gia của người dân ngay từ đầu, đồng thời áp dụng phương pháp quy hoạch tích hợp để bảo đảm sự tham gia đa ngành và của các bên liên quan, thay vì chỉ xin ý kiến khi đồ án gần hoàn thiện.
Ở góc độ khác, TS. Nguyễn Duy Lượng, Phó Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam cho rằng trong bối cảnh kinh tế thị trường biến động nhanh, công nghiệp hóa – đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, việc hình thành cụm/trung tâm nông thôn mới trở thành yêu cầu tất yếu. Đây là hướng đi giúp hiện đại hóa nông thôn đồng thời giữ vững vai trò trụ đỡ của nông nghiệp trong nền kinh tế.
Ông dẫn ví dụ từ Hải Phòng, nơi xã Đức Chính đã quy hoạch vùng trồng cây và rau màu rộng 360 ha thuộc 7 thôn, trong đó 80% diện tích trồng cà rốt phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Mô hình này giúp nâng cao giá trị gia tăng, ổn định đầu ra và tạo việc làm cho người dân.
Theo TS. Lượng, việc tập trung đất đai, lao động và hạ tầng chế biến vào các vùng sản xuất tập trung cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy nông nghiệp hiện đại và tăng thu nhập.
Để nhân rộng mô hình này, TS. Lượng kiến nghị ưu tiên đầu tư hạ tầng trọng điểm như giao thông liên xã, trung tâm dịch vụ công, chợ nông thôn và nền tảng chuyển đổi số. Ông cũng đề nghị khuyến khích doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư vào các vùng chuyên canh quy mô lớn gắn với chế biến – tiêu thụ sản phẩm; đồng thời đẩy mạnh đào tạo nhân lực, chuyển giao khoa học – kỹ thuật và công nghệ mới cho nông dân.
Tại hội thảo, nhiều nhà khoa học cũng cho rằng xây dựng cụm, trung tâm nông thôn mới là bước đi cần thiết để nâng cao chất lượng dịch vụ công, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và nâng chuẩn nông thôn mới. Tuy nhiên, quá trình triển khai phải bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với điều kiện từng vùng.
Ở vùng sâu, vùng xa, nơi dân cư phân tán, địa hình phức tạp và giao thông khó khăn, việc tập trung hóa dịch vụ công có thể khiến người dân khó tiếp cận hơn. Chỉ vài kilômét đường dốc, trơn trượt cũng trở thành rào cản đối với đồng bào miền núi. Mô hình trung tâm tập trung có thể hiệu quả ở đồng bằng, trung du nhưng nếu áp dụng cứng nhắc cho khu vực miền núi, nguy cơ gia tăng khoảng cách dịch vụ là điều có thể thấy trước.
Thu Giang