Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Trong tác phẩm “Võ Nguyên Giáp - Con người và huyền thoại” (Võ Nguyên Giáp-Man and Myth, New York, F.P.Publishers, 1962),
|
Đại tướng Võ Nguyên Giáp. |
nhà báo - nhà sử học Bernard Fall đã đánh giá rất xác đáng: “Trong một tương lai có thể thấy trước, phương Tây chưa thể đào tạo được một vị tướng nào sánh kịp Võ Nguyên Giáp”.
Quả thật, con người và sự nghiệp của ông không chỉ tỏa sáng rực rỡ trên lĩnh vực quân sự. Nghiên cứu về ông, sẽ là một khiếm khuyết lớn nếu không nói đến những cống hiến có giá trị to lớn của ông trên mặt trận văn hóa-tư tưởng và một số lĩnh vực khác.
Không phải đương nhiên, Bác Hồ đã phân công thầy giáo trẻ dạy sử Võ Nguyên Giáp đảm trách công tác quân sự của Đảng, gợi ý ông lấy bí danh là “Văn”, bố trí ông sớm tham gia công tác với cương vị lãnh đạo cấp cao, có lẽ, Bác đã nhìn thấy trước, ước muốn và tin tưởng tương lai anh Văn sẽ trở thành một trong những nhà lãnh đạo quân đội tài đức, văn võ song toàn. Bởi “Văn” sẽ là biểu tượng của tính nhân văn cao đẹp trong văn hóa quân sự của một quân đội cách mạng kiểu mới, là truyền thống văn hóa giàu tình người của nền văn hóa và nền văn hiến của dân tộc ta.
Ngược dòng thời gian cho thấy tuổi niên thiếu của Võ Nguyên Giáp đã nảy nở rất sớm tinh thần yêu nước chân chính, tràn đầy nhiệt huyết cách mạng.
Ông sinh ngày 25-8-1911, xuất thân trong một gia đình trung nông tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, một làng quê hẻo lánh ở một huyện nghèo của một tỉnh vào loại nghèo nhất miền Trung. Quê hương và gia đình ông rất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm. Cha ông là một nhà nho, dạy học trong vùng, có uy tín với bà con xóm làng, thường kể chuyện cụ Phan Bội Châu và đọc cho ông nghe bài vè “Thất thủ Kinh đô”. Mẹ ông là cháu ngoại một vị lãnh binh tham gia phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi cuối thế kỷ 19, thường kể cho ông nghe về phong trào yêu nước này.
Năm 14 tuổi vào học bậc trung học ở Trường Quốc học Huế, ông đã hăng hái tham gia phong trào đòi “Ân xá” cho cụ Phan Bội Châu và phong trào truy điệu, để tang cụ Phan Chu Trinh. Khi cụ Phan Bội Châu được đưa về cấm cố ở Huế, cứ đến cuối tuần, ông lại cùng bạn bè cùng chí hướng như Nguyễn Chí Diểu, Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn), Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam), bà Bội Lan, bà Thể Chi... đến nhà cụ Phan ở Bến Ngự để nghe cụ kể chuyện yêu nước thương nòi và chuyện canh tân đất nước.
Ông cùng các ông Hải Triều, Nguyễn Chí Diểu hình thành một kiểu “câu lạc bộ” đọc các sách báo bí mật như Việt Nam hồn, Le Paria (Người cùng khổ), Bản án chế độ thực dân Pháp... Được xem bức ảnh Nguyễn Ái Quốc rất trẻ, đội mũ phớt, các ông rất khâm phục và ngưỡng mộ. Các ông cũng được đọc cuốn ABC du Maxisme (ABC chủ nghĩa Mác) ở nhà cụ Võ Liêm Sơn - một nhà giáo yêu nước, tiến bộ. Vậy là, từ yêu nước các ông đã đi đến với lý tưởng cách mạng cao đẹp một cách hết sức tự nhiên và hình thành nhóm thanh niên cộng sản trong tổ chức Tân Việt Đảng.
Năm 1929, với tư cách phái viên của Tổng bộ Tân Việt và nhóm cộng sản trong Tân Việt, ông được cử vào Sài Gòn với nhiệm vụ chuyển Kỳ bộ Tân Việt sang hàng ngũ cộng sản, thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (về sau, tổ chức này hợp nhất với các tổ chức cộng sản khác thành Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930). Năm 1935, ông lại được cử vào Sài Gòn gặp nhóm đảng viên cộng sản hoạt động nửa công khai nhận tài liệu của Đông Dương Đại hội mang ra Hà Nội. Ông bị thực dân Pháp bắt giam một thời gian. Sau khi được trả tự do, ông ra Hà Nội dạy sử ở Trường Trung học tư thục Thăng Long, tiếp tục hoạt động cách mạng, cùng ông Phan Bôi viết báo cho Đảng. Bị mật thám theo dõi chặt nhưng ông luôn khéo léo, kín kẽ kể chuyện sử sách chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc ta và lịch sử nước Pháp, như cuộc Đại Cách mạng Pháp năm 1789, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1791, cuộc đánh chiếm ngục Ba-xti v.v.. nhằm thổi vào tâm hồn học sinh lòng yêu nước thương nòi, chống đế quốc phong kiến.
![]() |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các nhà báo nước ta trong đợt rút quân tình nguyện Việt Nam từ Cam-pu-chia về nước. Ảnh chụp tại Tây Nguyên (tháng 12-1989). Ảnh TL. |
Năm 1939, với bút danh Vân Đình ông làm ở tờ báo Tiếng Dân và giữa năm 1940, ông cùng đồng chí Phạm Văn Đồng bí mật sang Trung Quốc gặp Nguyễn Ái Quốc - người mà ông ngưỡng mộ đã từ lâu. Và từ đó, cuộc đời ông chuyển sang trang mới, cuộc đời của một nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp.
Thời cơ trực tiếp cách mạng đã đến! Ông cùng các đồng chí Phạm Văn Đồng, Trường Chinh viết sách, báo động viên, tổ chức tập thể quần chúng đứng lên khởi nghĩa từng phần và tổng khởi nghĩa đánh đổ quân phiệt Nhật, chế độ thực dân, phong kiến, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Các ông là những cây bút xung kích, những chiến sĩ đi tiên phong trên mặt trận văn hóa-tư tưởng của Đảng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc.
Được Bác Hồ phân công chuyên trách công tác quân sự của Đảng và thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, ông bắt tay khởi thảo và cùng các đồng chí Ban chỉ huy Đội: Hoàng Sâm, đội trưởng; Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) chính trị viên; Hoàng Văn Thái, cán bộ tham mưu thiết lập 10 lời thề, 10 điều kỷ luật của Đội và 12 điều kỷ luật đối với dân. Lời văn các văn bản này rất ngắn gọn, giản dị nhưng nội dung có sức thuyết phục rất to lớn, lay động lòng người, có giá trị như những lời huyết thệ thiêng liêng và là mệnh lệnh trái tim của người cầm súng, nội dung thể hiện đậm nét cả về bản chất chính trị và quan điểm văn hóa của một đội quân cách mạng kiểu mới. Ngày nay, các văn bản này đã được tu chỉnh trở thành lời thề danh dự, điều lệnh kỷ luật chính thức của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Về lĩnh vực văn hóa quân sự, đạo làm tướng đã chỉ dụ người cầm quân phải biết đau trước từng vết thương, biết tiếc từng giọt máu của tướng sĩ. Ông luôn tâm đắc và chuyển đến cán bộ thuộc quyền câu nói của Bác Hồ: “Không có trận thắng nào gọi là đẹp cả”. Không ít lần ông đã khóc trước những thương vong, tổn thất của đồng bào, chiến sĩ, không cầm được nước mắt trước sự hy sinh của học sinh, sinh viên ở dòng sông Thạch Hãn, Thành cổ Quảng Trị. Trước những chiến dịch, những trận đánh, ông thức thâu đêm suy tính chi ly tìm đủ cách giải bài toán tỷ lệ nghịch giữa thương vong và chiến thắng, nhằm tìm đáp số giành thắng lợi to lớn nhất nhưng hạ thương vong xuống mức thấp nhất.
Là Bí thư Quân ủy Trung ương, ông đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ quán triệt tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, đạo lý, truyền thống văn hóa của nhân dân và Đảng ta. “Bộ đội Cụ Hồ” là hình ảnh tiêu biểu chủ nghĩa nhân đạo của Quân đội nhân dân Việt Nam, một quân đội hết lòng yêu thương, sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc của dân tộc mình và láng giềng, bạn bè cùng cảnh ngộ, bao dung, độ lượng với kẻ thù, chiến đấu không chỉ vì độc lập, tự do của nước mình mà còn vì tình hữu nghị, hòa bình và tiến bộ xã hội của thế giới. Thực tiễn cho thấy, ít có một quân đội có được bản sắc và hành động văn hóa cao cả, tốt đẹp như quân đội ta.
Họa sĩ Lê Trí Dũng kể lại một câu chuyện của người “Anh cả quân đội” làm rạo rực lòng ta: Một ngày giáp Tết Nhâm Tý-1972 tại Ninh Bình, Sư đoàn 338 của anh được lệnh xuất quân vào chiến trường B. Đại tướng đến thăm chúc Tết và động viên đơn vị. Ông xuống xe đi bộ giữa hai hàng quân, vẫy tay chào. Đột nhiên ông dừng lại trước một người lính trẻ độ 16-17 tuổi, người nhỏ bé nhưng mặc bộ quân phục cỡ số 2 rộng thùng thình. Ông nở nụ cười ôn tồn hỏi:
- Đồng chí nhập ngũ bao lâu rồi?
- Báo cáo Đại tướng gần một tháng ạ.
- Thế đã học chào chưa?
Anh lính trẻ lúng túng chưa kịp trả lời, bỗng thấy Đại tướng dập gót chân đứng nghiêm và giơ tay chào. Anh lính trẻ bất thần đứng thẳng người chào đáp lại, đôi mắt rực sáng. Tiếng hô “... muôn năm!” vang dậy đất trời. Thật quá đỗi lạ lùng: Một Đại tướng Tổng Tư lệnh chào một anh binh nhì trước giờ xuất trận. Một cảnh tượng đẹp quá! Trong một đạo quân mà tình “Phụ tử chi binh” thân ái đến như vậy, thì người lính sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, sẵn sàng hy sinh vì một tấm lòng, một nghĩa cử văn hóa cao đẹp tuyệt vời của một chủ tướng anh minh.
Là người tổng chỉ huy quân đội, anh Văn hiểu rõ hơn ai hết cái giá phải trả của chiến tranh. Anh xem việc quý trọng sinh mạng con người không chỉ là vấn đề đạo đức, trách nhiệm mà còn là thước đo trình độ và phẩm chất văn hóa của người cầm quân.
Như chúng ta đã biết, sau năm 1975 không bao lâu, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng, là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng chuyên trách chỉ đạo về văn hóa, khoa học và cả công tác dân số kế hoạch hóa gia đình. Nhiều người thân tình băn khoăn lo lắng, sang làm công việc mới ông sẽ gặp phải những khó khăn, thách thức lớn. Nhưng ông điềm nhiên vui vẻ trả lời: “Anh Bộ đội Cụ Hồ, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành...”.
Bản lĩnh chính trị vững vàng của một nhà văn hóa lớn ở ông lại tỏa sáng rực rỡ. Được ông tiếp chuyện, Peter Macdonald - vị tướng và là nhà nghiên cứu lịch sử quân sự người Anh viết cuốn sách “Võ Nguyên Giáp - Một sự đánh giá” (Giap an assessment), xuất bản năm 1992 (Bản dịch tiếng Pháp là: Giáp - Hai cuộc chiến tranh Đông Dương) đã đánh giá rất xác đáng: “Về nhiều mặt, ông là người tổ chức hàng đầu của toàn thể dân tộc”.
Quả thực, ông là một vị tướng có tầm nhìn xa trông rộng, luôn coi trọng thực tiễn là lý luận, là chân lý, dám nhìn thẳng vào sự thật, nhìn thẳng vào khuyết điểm để chuyển bại thành thắng, rất chịu khó học tập, lắng nghe ý kiến hay của quần chúng, chuyên gia, các nhà trí thức, khoa học... Ông đã đề xuất nhiều vấn đề đi trước thời gian như có ý kiến rất sớm về kinh tế tri thức, kinh tế biển, khoa học kỹ thuật công nghệ cao, kinh tế trang trại, chiến lược phát triển con người…
Khi Đảng tiến hành công cuộc đổi mới, ông ủng hộ mạnh mẽ chủ trương đổi mới toàn diện cả về kinh tế, chính trị và phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Để tiến hành Cuộc vận động "Học tập, làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh" đạt hiệu quả cao, nhận thấy ông là người rất thích hợp, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã đề nghị ông tham gia nghiên cứu, đóng góp vào nhiệm vụ quan trọng này. Ông vui vẻ nhận lời và bắt tay viết ba chuyên luận: "Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam", "Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh", "Thế giới đổi thay, tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi". Những tác phẩm này có giá trị lý luận, thực tiễn rất sâu sắc, góp phần củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng và làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng trong thời kỳ mới.
Ở chuyên ngành nào thuộc phạm vi mình phụ trách, ông cũng đều có những ý kiến xác đáng, thấu tình đạt lý. Ví dụ như, với ngành sử học, ông góp rất nhiều chính kiến rất cơ bản. Ông cho rằng môn Sử - Địa giúp ích rất lớn về nâng cao tri thức, lòng yêu nước và trách nhiệm với xã hội. Và ông đặt câu hỏi: "Mình đã nhiều lần đi trao giải cho các học sinh thi giỏi Toán, Vật lý nhưng sao không thấy có giải của môn Sử-Địa? Cần nghiên cứu vấn đề này kể cả trong cách dạy và học, cùng với nhiều hình thức sinh động khác". Nhà sử học Trần Văn Giàu và các nhà lãnh đạo Hội Khoa học lịch sử Việt Nam rất quý trọng ông, bởi ông vừa là nhân vật lịch sử vĩ đại của thế kỷ 20 gắn liền với lịch sử đất nước, vừa là cánh chim đầu đàn của ngành lịch sử Việt Nam.
Về giáo dục và đào tạo, ông thường tâm sự với các vị lãnh đạo ngành, các thầy cô giáo và học sinh, sinh viên rằng: "Giáo dục và đào tạo không chỉ có sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài... mà còn có sứ mệnh tạo ra những định hướng giá trị về văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ và tinh thần có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội, bởi vì giáo dục và đào tạo là mục đích của cuộc sống, vì con người và vì cuộc sống. Do đó, mục tiêu cao nhất của giáo dục và đào tạo là chuẩn bị những người chủ hiện tại và tương lai của xã hội, những người sẽ góp phần quyết định vận mệnh của đất nước, của cộng đồng xã hội và chính bản thân mình. Để đạt mục tiêu đó phải cải cách căn bản nền giáo dục quốc dân, hình thành một nền giáo dục dân chủ, nhân văn và hiện đại, một xã hội học tập, xã hội tri thức, biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, trao cho con người những công cụ và phương pháp để tự học và học tập suốt đời...
Ngay cả sau khi nghỉ hưu, rời khỏi chính trường, tuổi đời rất cao, nhưng khi được hỏi, ông vẫn rất minh mẫn, sắc sảo, sáng suốt đóng góp nhiều ý kiến quan trọng cho Đảng, Chính phủ và Quân đội. Điển hình như trong việc cấp phép cho nước ngoài xây dựng các công trình công nghiệp trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên và vùng rừng núi ở biên giới, Đại tướng cho rằng phải đặc biệt coi trọng bảo đảm an ninh, quốc phòng và môi trường sống; phải đặc biệt coi trọng bảo vệ vùng trời và nhiệm vụ an ninh, quốc phòng trên biển thích ứng với trạng thái mới của chiến tranh điện tử; phải thực hành dân chủ rộng rãi, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm tính dân chủ và tính khoa học trong quá trình ra quyết định; sớm nghiên cứu vấn đề xây dựng xã hội dân sự, xã hội công dân trên cơ sở lý luận của Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm tạo ra một xã hội bình đẳng về chính trị, sự đồng thuận xã hội rộng rãi v.v.
Song, điều cần nghiên cứu một cách nghiêm túc và khoa học, đó là những cống hiến xuất sắc của ông trên mặt trận văn hóa-tư tưởng. Có thể khẳng định rằng trên thế giới hiếm có một vị tướng nào sánh kịp ông: Viết nhiều bài báo nhất, cả hàng trăm bài; để lại nhiều luận văn nhất, gần 100 bản có giá trị trên nhiều lĩnh vực; đặc biệt là viết nhiều sách văn học nhất.
Những tác phẩm tiêu biểu của ông như: "Chiến tranh giải phóng và Quân đội nhân dân", "Ba giai đoạn chiến lược", "Điện Biên Phủ", "Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng", "Chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc", "Thế giới đổi thay, tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi", "Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh", "Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam"... cùng với những cuốn hồi ký văn học lịch sử như: "Từ nhân dân mà ra", "Những chặng đường lịch sử", "Những năm tháng không thể nào quên", "Chiến đấu trong vòng vây", "Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử", "Tổng Hành dinh trong mùa xuân toàn thắng"... đã giúp người đọc nhất là người đọc nước ngoài hiểu rõ bản sắc, truyền thống văn hóa, nguồn gốc sức mạnh của dân tộc Việt Nam, càng thêm yêu mến, khâm phục đất nước, nhân dân ta. Họ cũng hình dung được đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quá trình hình thành, phát triển và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, từ chỗ không hiểu nổi, không giải thích được, thì sau khi đọc những tác phẩm ông viết về quân sự nhiều học giả trên thế giới đã nhận thức được học thuyết về cuộc chiến tranh toàn dân, phân định được nguyên nhân vì sao hai đế quốc Pháp, Mỹ hùng mạnh lại thất bại hoàn toàn trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Nhiều học giả, nhà trí thức, nhà báo, văn nghệ sĩ cho biết: Anh Văn biết chơi đàn pi-a-nô khá giỏi và rất yêu thích âm nhạc, hội họa, nghệ thuật tạo hình, các môn khoa học về thái cực quyền và ngồi thiền. Họ yêu mến, quý trọng ông còn bởi một lẽ trong các hồi ký ông đã nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan giữa cá nhân mình và tập thể, đặt lên trên hết là sự thật lịch sử. Nhờ hội tụ được một đội ngũ chuyên gia ở trong và ngoài quân đội giàu tài năng và trách nhiệm, hết lòng ủng hộ, giúp đỡ, nên các sự kiện lịch sử trong những cuốn hồi ký của ông rất trung thực, khách quan và khoa học, gây được sự ái mộ và tin cậy. Qua các cuốn hồi ký ấy, người ta không thấy cá nhân ông xuất hiện, chỉ nghe ông kể chuyện và nhận được ông những nghĩ suy thấu đáo, những tình cảm đậm đà, ân nghĩa sâu nặng với nhân dân, đất nước, Đảng, Bác Hồ, quân đội, đồng chí, bạn bè, các anh hùng liệt sĩ, các mẹ, các chị kiên trung bất khuất v.v.. Và chính điều đó làm cho người đọc càng quý trọng nhân cách văn hóa cao đẹp ở ông.
Về vấn đề bản sắc văn hóa của dân tộc phải làm như thế nào? Ông thân mật góp ý kiến với anh chị em văn nghệ sĩ và nhấn mạnh 8 chữ : "Độc lập, tự do, thông minh, sáng tạo". Ông trao đổi thêm: "Không có gì quý hơn độc lập tự do" đã trở thành bản sắc, truyền thống văn hóa của dân tộc. Chúng ta nhiều lần bị mất nước nhưng không bao giờ bị mất bản sắc văn hóa của dân tộc, luôn kiên quyết chiến đấu để giành độc lập, tự do, rất thông minh và sáng tạo trong sự nghiệp tranh đấu bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa của dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, độc lập và tự do cho Tổ quốc là nguồn cảm hứng lớn nhất cho văn nghệ sĩ của chúng ta. Tuy nhiên, dám đánh nhưng phải biết cách đánh thắng bằng bản sắc văn hóa riêng của mình thì mới làm nên chiến thắng. Vì vậy, phải hết sức thông minh và sáng tạo. Không có lĩnh vực nào đòi hỏi tinh thần độc lập, tự do, thông minh và sáng tạo như trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Do đó, phải chọn lọc tinh hoa văn hóa nước ngoài thật kỹ lưỡng, phù hợp và làm giàu thêm bản sắc, truyền thống văn hóa của dân tộc, hết sức tránh sính ngoại, lai căng, đòi hỏi chúng ta phải thật thông minh, sáng tạo, thì mới gìn giữ và phát triển được bản sắc văn hóa của dân tộc... Theo cách nói của những anh chị em làm công tác văn hóa - nghệ thuật, thì Anh Văn là biểu tượng của một tâm hồn văn hóa lớn trong một vị tướng thiên tài, một người cộng sản nhân đạo và khoa học.
Với đức độ, tài năng và uy tín lớn của mình, ở trong nước, ông được bầu làm chủ tịch danh dự của 3 hội: Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và Hội Khuyến học Việt Nam. Còn ở nước ngoài, có một câu chuyện đầy xúc động và tự hào: Hưởng ứng thông điệp của UNESCO, Ấn Độ tổ chức rất trọng thể kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chí Minh" (1890-1990). Nhận lời mời của chính phủ Ấn Độ, nhà nước ta đã cử ông sang dự. Nhân dân Ấn Độ chào mừng ông tưng bừng nồng nhiệt chưa từng thấy. Đọc diễn văn tại cuộc mít tinh lớn, Thủ tướng Ấn Độ Chan-đra Xếch-kha hết lời ca ngợi ông và nhấn mạnh: "Là học trò và bạn chiến đấu của Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thể hiện tài năng chiến thuật, sự táo bạo và sáng tạo tuyệt vời. Các chiến dịch do ngài chỉ huy đã trở thành kinh điển, được các nhà quân sự cũng như các học giả nghiên cứu... Mỗi khi người ta ca ngợi những hành động quả cảm và chủ nghĩa anh hùng, thì Điện Biên Phủ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ lại được nhắc đến".
Trường Đại học tổng hợp Can-cút-ta, một trong những trường đại học lớn nhất và lâu đời nhất của Ấn Độ, được thành lập từ năm 1875, đã trao tặng ông bằng học vị Tiến sĩ danh dự về Văn học. Sau khi nêu tên các tác phẩm như "Những năm tháng không thể nào quên", "Chiến tranh nhân dân và Quân đội nhân dân", ngài Thủ hiến bang Tây Ben-gan ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp - một trong những kiến trúc sư nước Việt Nam mới, là một con người đã "Thực hiện được sự kết hợp hiếm có giữa sự dũng cảm về quân sự, minh mẫn về chính trị, sắc sảo về hành chính và tài năng văn học...". Và ngài Thủ hiến đã phát biểu lời cuối cùng hết sức chân tình, gây bầu không khí phấn chấn lạ thường: "Khi buổi lễ này kết thúc, tất cả chúng tôi sẽ quay về ngôi nhà của mình, nhưng tất cả chúng tôi sẽ nhớ mãi rằng: Một con người Việt Nam đã thuộc về toàn thế giới, từng có mặt ở đây!" (Đại tướng Võ Nguyên Giáp - NV).
Tháng 8-2010, chào mừng ngày sinh lần thứ 100 của Đại tướng, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam -Tạp chí Xưa và Nay phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật đã xuất bản cuốn sách: "Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp với sử học Việt Nam". Cuốn sách quý này chọn lọc đăng 34 bài báo của Đại tướng viết về các danh nhân, các sự kiện lịch sử lớn của đất nước cùng nhiều tác giả viết về Đại tướng. Cuốn sách đã hội tụ được nhiều đánh giá khách quan, sâu sắc, nhất là của người nước ngoài, đã khắc họa sắc nét, tinh tế chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Là một trong những học trò và bạn chiến đấu xuất sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Hồ Chí Minh giáo dục, rèn luyện, Võ Nguyên Giáp không ngừng nỗ lực tự học, tu dưỡng, phấn đấu vươn cao ngang tầm thời đại, trở thành một đại tướng của nhân dân, đại tướng của quân đội cách mạng, một nhà văn hóa lớn của Việt Nam...
Sách có câu: Thời thế tạo anh hùng và anh hùng góp phần làm nên thời thế. Thời đại Hồ Chí Minh đã sản sinh ra biết bao bậc lão thành cách mạng, các nhà yêu nước nổi tiếng được nhân dân yêu quý, biết ơn và kính trọng như những bậc khai quốc công thần, những vị anh hùng dân tộc một lòng vì nước vì dân, mà Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là một trong những nhân vật lịch sử như thế.
Mừng thọ và chiêm nghiệm về ông, bức trướng của Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh do giáo sư Vũ Khiêu phóng tác đã viết: Võ công truyền quốc sử/Văn đức quán nhân tâm.