Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
|
Những nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường cho thấy, biến đổi khí hậu tác động đặc biệt mạnh mẽ tới sông ngòi, gây ra những thái cực trái ngược, mùa lũ nước dâng cao còn mùa hạn lại giảm sâu.
Xác lập những kỷ lục mới về đỉnh lũ
TS. Hoàng Minh Tuyển, Phó Giám đốc Dự án "Tác động của biến đổi khí hậu lên tài nguyên nước và các biện pháp thích ứng", cho biết, biến đổi khí hậu đã làm gia tăng mức độ nguy hiểm của lũ lụt. Theo tính toán, giá trị lưu lượng đỉnh lũ lớn nhất đều có xu thế tăng trên hầu hết các sông, chỉ một số nhánh sông của sông Đồng Nai là giảm.
Với kịch bản phát thải khí nhà kính ở mức trung bình, thì đến năm 2040-2059, biến đổi khí hậu dự kiến sẽ làm lưu lượng đỉnh lũ hàng năm ở các sông tăng khoảng 1-5% so với những năm 1980-1990. Đặc biệt có thể tăng đến 9% tại sông Hồng khu vực chảy qua Yên Bái. Vào thời kỳ 2080-2089, mức tăng này lên tới 5-15%, cá biệt có thể tăng 18,5% trên sông Ba ở Củng Sơn, 21,7% trên sông Thao tại Yên Bái, 19% trên sông Lô tại Ghềnh Gà. Điều đó có nghĩa là những đỉnh lũ mới cao hơn nhiều lần, cường độ dữ dội hơn nhiều lần so với hiện nay.
Với kịch bản phát thải cao, những con số tính toán còn cao hơn nhiều. Tại sông Mê Kông, giữa thế kỷ 21, lưu lượng ngày có thể tăng trên 50% so với đỉnh lũ năm 2000.
Đặc biệt đối với đồng bằng sông Cửu Long, hàng năm vào mùa lũ, lũ sông Mê Kông sẽ làm ngập gần 2 triệu ha, kéo dài 3-5 tháng. Các nhà khoa học ước tính, 90% diện tích đồng bằng này sẽ ngập vào mùa lũ, trong đó diện tích ngập sâu trên 0,5m gần 69%.
Đặc biệt, hàng năm vào mùa lũ sẽ gây ngập lụt các vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, vùng kẹp giữa 2 sông Tiền và sông Hậu nghiêm trọng hơn. Cần Thơ và Vĩnh Long là hai vùng bị ngập nghiêm trọng nhất.
Đối lập với những cơn lũ lớn khủng khiếp trong mùa mưa thì về mùa khô, hình ảnh những dòng sông trơ đáy sẽ ngày càng phổ biến.
Dựa trên các kịch bản phát thải, mô hình tính toán đã dự đoán: Vào thời kỳ 2040-2059, mức độ giảm của dòng chảy trung bình về mùa cạn thấp nhất là 1,5% ở sông Đà, sông Hiếu, sông Gâm và cao nhất lên tới 10% trên sông Ba. Trên lưu vực sông Cả, dòng chảy trung bình mùa cạn giảm khoảng 11%. Tháng cạn nhất có thể giảm đến gần 27%. Cùng với nước biển dâng khiến mặn xâm nhập sâu, nhiệt độ tăng làm tăng sự bốc hơi nước, dự đoán đến cuối thể kỷ, lượng nước cần cho tưới trên lưu vực sông này thiếu hụt tới 50% so với hiện nay.
Biến đổi khí hậu làm giảm 3%điện lượng cho thủy điện
Theo quy hoạch điện 6 đã được Chính phủ phê duyệt, trên 5 lưu vực sông Hồng - Thái Bình, Cả, Ba, Thu Bồn, Đồng Nai có 32 thủy điện. Đó là chưa kể đến hàng trăm thủy điện nhỏ cũng đang "chắt nước" từ các dòng sông lớn phục vụ cho nhu cầu phát điện. Với tác động của biến đổi khí hậu, dòng chảy các sông thay đổi dẫn đến sản lượng điện của các nhà máy thủy điện sẽ bị ảnh hưởng về lâu dài.
Các nhà khoa học cho biết, chỉ duy có lưu vực sông Hồng - Thái Bình, sông Cả, lượng điện phát ra trung bình hàng hàng năm tăng lên, sông Cả tăng 3%, còn trên các lưu vực còn lại đều giảm từ 3-6%, vào giữa thế kỷ 21. Trong khi nhu cầu sử dụng điện ngày càng lớn.
Sông Thu Bồn, sông Ba chịu sức ép của việc khai thác, sử dụng nước khá cao, hệ thống thủy điện vừa và nhỏ dày đặc theo kết quả tính toán trong tương lại sẽ diễn ra tranh chấp về nước gay gắt.
Điện lượng giảm trên các lưu vực sông Ba, Thu Bồn, Đồng Nai chủ yếu do dòng chảy trong 9 tháng mùa cạn giảm mạnh, trong khi đó vào 3 tháng mùa lũ, công suất phát lại tăng không đáng kể.
Đặc biệt, nhu cầu nước tưới cho nông nghiệp cũng là vấn đề cấp thiết khi nhiệt độ tăng lên, bốc thoát hơi nước nhiều, lượng mưa trong mùa khô giảm. Theo tính toán, tại Đồng Nai, nhu cầu nước tưới sẽ là nhiều nhất, lên đến 50% vào cuối thế kỷ 21.
Nhật Tân