Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
![]() |
Ảnh minh họa |
Theo Cục Đầu Tư nước ngoài Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ cấu phân bổ vốn FDI vào Việt Nam hiện nay còn chưa hợp lý với việc rất nhiều các dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ lưu trú, ăn uống và bất động sản.
Cụ thể, năm 2009, dịch vụ lưu trú và ăn uống vẫn là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 8,8 tỷ USD vốn cấp mới và tăng thêm. Các dự án kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm.
Trong khi đó, FDI trong lĩnh vực công nghiệp chế biến đã bị giảm liên tục từ năm 2005 (từ 70,4% năm 2005 xuống còn 13,6% năm 2009). Vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào công nghiệp lắp ráp nhằm tận dụng lao động rẻ, có giá trị gia tăng thấp (dù trong tháng 10 vừa qua, đầu tư FDI vào công nghiệp chế biến, chế tạo lđạt mức khá cao 4,065 tỷ USD).
Một số DN FDI còn gây ô nhiễm môi trường, công nghệ tiêu tốn nhiều năng lượng.
Do đó, rất khó có thể bảo đảm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước theo hướng bền vững và chưa phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Theo ông Phạm Khắc Hiếu, Phó Trưởng Ban Môi trường Kinh doanh và Năng lực cạnh tranh-Viện Nghiện cứu quản lý Kinh tế TW (CIEM) Việt Nam: Luôn có sự chênh lệch giữa “vốn đăng ký” và thực hiện, ví dụ, năm 2008 vốn đăng ký ở nước ta ở mức kỷ lục lên tới gần 70 tỷ USD, nhưng tỷ lệ giải ngân được rất thấp chỉ khoảng hơn 11 tỷ.
Ngay cả số lượng vốn giải ngân cũng chưa có sự công bố rõ ràng thành phần vốn thật sự từ nước ngoài vào là bao nhiêu.
Đại diện Cục Đầu tư nước ngoài cũng đồng tình rằng: Vốn FDI thực hiện ở Việt Nam gồm tất cả vốn huy động được, trong đó bao gồm cả vốn huy động được từ trong nước, thành phần vốn do ngân hàng Nhà nước bóc tách. Trên thực tế, vốn FDI thực hiện huy động từ nước ngoài vào luôn thấp hơn con số giải ngân được công bố.
Xem xét lại các tiêu chí ưu đãi
Theo ông Phạm Khắc Hiếu, Việt Nam chưa có tiêu chí xác định về ĐTNN cụ thể như Hàn Quốc và Đài Loan.
Ở Đài Loan và Hàn Quốc việc chuyển vốn đầu tư vào mới được coi là hoàn thành thủ tục đầu tư, lượng vốn ĐTNN thực chất đúng bằng lượng vốn đưa vào và không có khái niệm vốn cam kết, vốn giải ngân và thực hiện như ở Việt Nam.
Còn ông Nguyễn Đình Cung, Phó Viện trưởng CIEM cho rằng, dù luôn kêu gọi Việt Nam cần có chính sách thông thoáng hơn về ĐTNN nhưng thực tế nhiều nước lại có chính sách khá chặt chẽ trong việc thu hút ĐTNN. Theo đó, chính sách ĐTNN có mục tiêu rõ ràng, không ưu đãi dàn trải cả những dự án thông thường có giá trị gia tăng thấp. Sự ưu đãi theo hướng khuyến khích đầu tư chuyển giao công nghệ, nghiên cứu phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh của quốc gia.
Việc quản lý vốn ĐTNN ở những quốc gia và vùng lãnh thổ này cũng khá tập trung, như ở Hàn Quốc tập trung vào Ngân hàng Invest Korea, Korean Business Centre; còn ở Đài Loan (Trung Quốc), tập trung vào Ủy ban Đầu tư-Bộ Kinh tế, trong khi ở Việt Nam phân quyền triệt để cho các địa phương, trừ một số dự án đặc biệt.
Thiếu năng lực quản lý những dự án lớn cùng với việc chạy theo thành tích thu hút ĐTNN khiến một số địa phương trong nước thu hút ĐTNN tràn lan mà chưa tính toán đầy đủ đến hiệu quả kinh tế xã hội lâu dài của các dự án đầu tư.
Huy Thắng