Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Ngay sau khi thế giới sản xuất được vaccine và khống chế dịch COVID-19 (đại dịch), Mỹ, Khu vực đồng tiền chung châu Âu và các nước đã áp dụng chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng nhằm phục hồi, thúc đẩy phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, đưa kinh tế trở lại thời kỳ trước đại dịch.
Năm 2021, kinh tế thế giới có sự phục hồi đặc biệt ấn tượng với GDP toàn cầu tăng 5,9%. Kinh tế Mỹ tăng 5,7%, mức tăng cao nhất kể từ năm 1984 sau khi suy giảm 3,4% trong năm 2020 và cao hơn 3,1% so với trước đại dịch. Khu vực Eurozone tăng 5,2%. Trung Quốc - nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tăng 8,1% cao nhất trong một thập kỷ qua.
Bên cạnh hệ luỵ do thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng, kinh tế thế giới phải gánh chịu cuộc khủng hoảng 3 chiều: năng lượng, lương thực và tài chính, cộng hưởng gây nên lạm phát cao.
Mỹ và Cộng đồng chung châu Âu (EU) lạm phát tăng cao liên tiếp, lập kỷ lục trong 40 năm qua. Tại Mỹ, tháng 6/2022 lạm phát tăng đến mức 9,1%. Tại EU, lạm phát đã lập kỷ lục mới 8,9% vào tháng 7- tháng thứ 9 liên tiếp lạm phát tăng.
Để kiềm chế lạm phát, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng Trung ương nhiều nước trên thế giới đã nâng lãi suất với mức khá cao.
Ngày 27/7 vừa qua, FED quyết định nâng lãi suất cơ bản đồng USD với mức 0,75%, đây là lần thứ hai trong vòng 2 tháng FED đã nâng lãi suất với mức cao, đưa lãi suất hiện tại của nền kinh tế lên mức 2,25% -2,5% - mức cao nhất kể từ tháng 12/2018.
Ngoài ra, FED có thể tăng thêm một đợt lãi suất 0,75% vào cuối năm 2022. Dự báo, lãi suất tham chiếu của FED có thể tăng lên mức 3,1%-3,6% vào cuối năm nay và 3,6%-4,1% vào cuối năm 2023.
Nỗ lực thắt chặt chính sách tiền tệ để chống lạm phát của FED diễn ra trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Mỹ đã giảm 2 quý liên tiếp nhưng lạm phát vẫn chưa được kiểm soát.
Cùng với FED, ngày 21/7 vừa qua, ECB tăng lãi suất cơ bản đồng EUR với mức tăng 0,5%, chấm dứt kỷ nguyên lãi suất âm sau 11 năm. Ngân hàng Trung ương Anh đã tăng lãi suất lên mức cao nhất trong 13 năm qua. Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đều đã có từ 1-3 lần tăng lãi suất từ đầu năm đến nay.
Cùng với việc tăng lãi suất, FED còn thu hẹp quy mô bảng cân đối kế toán khoảng 427,5 tỷ USD trong nửa cuối năm 2022. Việc thắt chặt chính sách tiền tệ của Mỹ sẽ tác động tới kinh tế thế giới trên 5 phương diện sau:
Mặt bằng lãi suất toàn cầu tăng lên khiến kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, tổng cầu hàng hóa và dịch vụ thế giới suy giảm.
Đồng USD lên giá so với hầu hết các đồng tiền khác làm cho đồng nội tệ của các nước yếu đi so với USD, vì vậy kích thích xuất khẩu nhưng nhập khẩu sẽ đắt hơn, đặc biệt nhập khẩu xăng dầu.
Lãi suất USD tăng, các nhà đầu tư lo ngại rủi ro, rút vốn từ các thị trường mới nổi, quay về đầu tư tại thị trường Mỹ và một số thị trường phát triển khác để phòng tránh rủi ro và hưởng lãi suất cao. Điều này tác động đến dòng vốn đầu tư, nhất là đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Tăng lãi suất USD sẽ tác động tiêu cực đến khả năng vay vốn trên thị trường quốc tế của các nước thuộc thị trường mới nổi vì các tổ chức cho vay sẽ đòi trả lãi cao hơn lãi suất khi họ đầu tư an toàn hơn tại Mỹ. Điều này gây khó khăn đối với chính phủ các nước thuộc thị trường mới nổi khi đang phải đương đầu với giá năng lượng và lương thực nhập khẩu tăng cao do đại dịch và cuộc chiến tại Ukraine.
Mỹ tăng lãi suất khiến giá trị đồng USD, tỷ giá giữa đồng nội tệ và USD tăng, gây thêm gánh nặng cho các quốc gia khi phải trả nợ nước ngoài tăng lên, khiến cho dự trữ ngoại tệ cạn kiệt. Bên cạnh đó khi FED tăng lãi suất sẽ thúc đẩy ngân hàng trung ương các nước phải tăng lãi suất để ổn định cán cân vãng lai, dẫn tới suy giảm tăng trưởng kinh tế.
Trước những sức ép và tác động của lạm phát cao dẫn đến FED và nhiều ngân hàng trung ương các nước tăng lãi suất; cuộc chiến Nga-Ukraine làm cho khủng hoảng năng lượng càng trầm trọng, các nước châu Âu phải đương đầu với thiếu hụt khí đốt cho mùa đông khắc nghiệt đang đến gần; với chiến lược zero COVID, kinh tế Trung Quốc giảm tốc độ tăng trưởng - đây là những yếu tố tác động rất lớn đối với kinh tế thế giới.
Mới đây, trong Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới năm 2022, IMF dự báo tăng trưởng toàn cầu năm nay ở mức 3,2% và 2,9% cho năm 2023. Đồng thời IMF cũng nâng dự báo lạm phát toàn cầu năm nay tại các nền kinh tế phát triển sẽ chạm mức 6,6% và các nền kinh tế mới nổi, đang phát triển lên mức 9,5%; dự báo lạm phát trên toàn thế giới sẽ trở lại gần mức trước đại dịch vào cuối năm 2024, sau khi về 5,7% vào cuối năm 2023.
IMF cảnh báo kết quả thực tế có thể còn tệ hơn vì hàng loạt rủi ro hiện hữu. Đó là châu Âu đột ngột ngừng nhập khẩu khí đốt từ Nga; lạm phát khó kiềm chế bằng chính sách; các nước nghèo chật vật trả nợ do tài chính toàn cầu thắt chặt; và kinh tế Trung Quốc suy yếu vì chống dịch và khủng hoảng bất động sản. Theo IMF, trong kịch bản xấu, nếu Nga cắt toàn bộ cung cấp khí đốt cho châu Âu, tăng trưởng toàn cầu có thể chỉ là 2,6% năm 2022 và 2% năm 2023.
Mỹ, nền kinh tế hàng đầu, mang tính dẫn dắt kinh tế thế giới đã suy giảm 2 quý liên tiếp, tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế Mỹ đều suy giảm; theo dự báo của IMF, kinh tế Mỹ sẽ ghi nhận mức tăng trưởng 2,3% năm 2022 và 1% năm 2023.
Hoạt động sản xuất của Trung Quốc đã giảm trong tháng 7/2022. Chỉ số nhà quản trị mua hàng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới giảm xuống 49 vào tháng 7, từ mức 50,2 của tháng 6 và dưới mốc 50, ngưỡng phân định giữa tăng trưởng và suy giảm.
Các chỉ số kinh tế và dự báo triển vọng kinh tế toàn cầu của IMF phản ánh một thực tế kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại trong bối cảnh lạm phát cao, nguy cơ kinh tế thế giới rơi vào suy thoái. IMF mô tả kinh tế thế giới năm 2022 là bức tranh "u ám và bất định".
Mặc dù kinh tế Mỹ đã có 2 quý suy giảm liên tiếp, kinh tế và tổng cầu thế giới suy giảm, điều này có tác động nhưng không nhiều tới thương mại quốc tế của Việt Nam.
Đa số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam là hàng tiêu dùng thiết yếu, như hàng dệt may, da giày, sản phẩm nông nghiệp, thủy sản. Ở các nước khi suy thoái, người dân vẫn phải sử dụng những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu này.
Thêm nữa, giá trị các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đối với chi tiêu của các nước trên thế giới không lớn nên kim ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam không bị ảnh hưởng nhiều. Thực tế trong 7 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nước ta đạt 216,35 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn được đánh giá là thị trường đầu tư hấp dẫn do hệ thống chính trị và kinh tế vĩ mô ổn định. Trong 7 tháng đầu năm 2022, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam ước tính đạt 11,57 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất của 7 tháng trong 5 năm qua.
Trong thời gian tới dòng vốn FDI có chất lượng hơn, với công nghệ cao sẽ đổ vào Việt Nam trong các lĩnh vực năng lượng sạch, nông nghiệp công nghệ cao, cơ khí chính xác.
Theo khảo sát, khoảng 76% doanh nghiệp của EU đang hoạt động tại Việt Nam sẽ tăng vốn đầu tư. Với dự báo tăng trưởng kinh tế đạt trên 6% trong năm 2022 và 2023.
Kể từ khi FED tăng lãi suất, chỉ có 4.600 tỷ đồng vốn rút dòng từ đầu năm đến nay ra khỏi thị trường Việt Nam.
Tuy vậy, tình trạng giải ngân vốn đầu tư công chậm, kéo dài nhiều năm chưa có chuyển biến đáng kể, ảnh hưởng đến huy động các dòng vốn, uy tín quốc gia, giảm niềm tin của nhà đầu tư, nhà tài trợ, nhiều dự án lớn đội vốn, gây lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả.
Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt, bám sát diễn biến thị trường. Vì vậy khi FED tăng lãi suất, tỷ giá VND/USD tăng không nhiều do dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt mức khá cao, đủ khả năng chống chịu các cú sốc bên ngoài; nguồn cung ngoại tệ từ kiều hối, thực hiện giải ngân vốn FDI dự báo vẫn tăng ổn định, cán cân thương mại cả năm dự báo thặng dư.
Trong thời gian qua, khi FED đã 4 lần tăng lãi suất, tỷ giá VND/USD chỉ tăng khoảng 2%-3%, mức thấp so với biến động tăng tỷ giá đồng nội tệ của các nước trên thế giới. Tỷ giá VND/USD tăng nhẹ trong thời gian qua đã góp phần tăng tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của nước ta.
Tuy vậy, kinh tế nước ta phụ thuộc khá lớn vào nguyên vật liệu nhập khẩu. Khi đồng USD tăng giá trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ tác động không nhỏ tới ổn định sản xuất và gia tăng tác động của lạm phát chi phí đẩy do nhập khẩu lạm phát.
Mỹ tăng lãi suất khiến nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của chính phủ và doanh nghiệp sẽ tăng lên. Hiện nay, mức vay nợ nước ngoài tự vay, tự trả của Việt Nam vẫn trong khuôn khổ an toàn nợ nước ngoài của quốc gia và đóng góp quan trọng trong việc duy trì đà tăng trưởng kinh tế. So với nhóm các nước trong khu vực, nợ nước ngoài tự vay, tự trả của Việt Nam vẫn ở mức trung bình.
Theo Bộ Tài chính, hiện nay khối lượng vay vốn trong nước của Chính phủ chiếm 90% và vay vốn nước ngoài chỉ chiếm khoảng 10% tổng giá trị hàng năm; các khoản vay trong nước của Chính phủ có xu hướng tăng nhanh và chiếm vai trò chủ đạo, nợ nước ngoài giảm dần, vì vậy rủi ro về tỷ giá đối với nợ nước ngoài giảm xuống, đảm bảo an toàn nợ công và an ninh tài chính quốc gia. Do đó, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ bị tác động không nhiều trước việc đồng USD tăng giá.
Tuy vậy, vay và trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng theo phương thức tự vay, tự trả tăng cao, khi FED tăng lãi suất, khu vực doanh nghiệp sẽ tăng gánh nặng trả nợ vay nước ngoài.
Trên 5 phương diện tác động của việc FED tăng lãi suất ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam, với sự điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá linh hoạt đảm bảo ổn định mặt bằng lãi suất và tỷ giá sẽ góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô, tạo cơ hội thực hiện thành công Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.
Để kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định vĩ mô, tạo nền tảng quan trọng cho phục hồi và phát triển kinh tế, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp cần chủ động, linh hoạt, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, rà soát bãi bỏ các quy định không hợp lý nhằm cắt giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng thúc đẩy tổng cung, giảm áp lực lạm phát.
Chính phủ khẩn trương, tập trung chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan tháo gỡ điểm nghẽn về sự chồng chéo giữa các quy định pháp luật chuyên ngành liên quan đến thực hiện dự án đầu tư công và hạn chế trong công tác giải phóng mặt bằng. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chính sách, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao năng lực nội tại của nền kinh tế.
Để nền kinh tế không lỡ nhịp với các cơ hội trong nước và quốc tế, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành, lĩnh vực chủ động nắm chắc tình hình, rà soát, nhận diện các cơ hội và thách thức, kịp thời đưa ra những chính sách, giải pháp phù hợp; đối với một số ngành, lĩnh vực trong các tình huống đặc biệt thì cần đưa ra giải pháp đặc thù để vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng và phát huy tối đa các cơ hội, thúc đẩy quá trình phục hồi, phát triển kinh tế, xã hội và duy trì động lực tăng trưởng trong dài hạn, tạo dựng và khai thác các động lực tăng trưởng mới.
Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, giữ lãi suất và tỷ giá ổn định trong biên độ cho phép; đảm bảo vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người dân với lãi suất phù hợp, hỗ trợ xuất nhập khẩu, thúc đẩy nhanh quá trình phục hồi và phát triển kinh tế, xã hội.
Trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành liên quan, đặc biệt cộng đồng doanh nghiệp đa dạng nguồn cung. Đảm bảo nguồn cung của từng nhóm nguyên vật liệu của mỗi ngành không phụ thuộc vào một thị trường, một khu vực. Bộ Công Thương chủ trì, cùng với các Bộ, ngành liên quan đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm nguồn cung nguyên, nhiên vật liệu cho sản xuất, giảm thiểu tác động của nhập khẩu lạm phát đối với nền kinh tế.
Cộng đồng doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị đầy đủ các điều kiện đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa. Đối với các mặt hàng thiếu hụt trong ngắn hạn cần có giải pháp nhập khẩu kịp thời nguyên nhiên vật liệu, cắt giảm chi phí sản xuất; đối với các mặt hàng thiếu hụt dài hạn cần chủ động tìm kiếm nguồn hàng và đối tác cung ứng thay thế.
Chính phủ chỉ đạo điều tiết hợp lý giá các mặt hàng thiết yếu do Nhà nước quản lý như xăng dầu, điện, dịch vụ, y tế, giáo dục… thực hiện trợ cấp xã hội cho những hoàn cảnh khó khăn, qua đó giảm thiểu tác động từ việc Fed tăng lãi suất ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân, nhất là người có thu nhập thấp.
Chính phủ cần tập trung vào công tác chỉ đạo, khẩn trương thực hiện các chính sách, giải pháp đã ban hành để tránh bỏ lỡ cơ hội, lỡ nhịp đối với kinh tế nước ta. Chính sách và giải pháp tốt nhưng triển khai chậm vẫn chỉ là chính sách./.
TS. Nguyễn Bích Lâm