• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Cần thiết xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số

(Chinhphu.vn) - Ngày 08/8, Bộ Tư pháp tổ chức phiên họp thẩm định Dự án Luật Công nghiệp công nghệ số. Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Tiến Dũng chủ trì phiên họp. Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Bùi Hoàng Phương cùng dự.

09/08/2024 15:16
Cần thiết xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số- Ảnh 1.

Xây dựng dự án Luật Công nghiệp công nghệ số là cần thiết để thúc đẩy trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo môi trường thuận lợi nhất để “nuôi dưỡng” và phát triển doanh nghiệp công nghệ số - Ảnh: VGP/LS

Bộ Thông tin và Truyền thông: thúc đẩy trở thành ngành kinh tế mũi nhọn

Phát biểu tại phiên họp, đại diện Bộ Thông tin và Truyền thông Bùi Hoàng Phương cho biết, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến việc hoàn thiện, xây dựng thể chế để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT), công nghiệp công nghệ số trong nước. Các văn kiện, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước gần đây tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, định hướng quan trọng cho việc hoàn thiện thể chế về công nghiệp công nghệ số.

Tuy nhiên, các quy định pháp luật về công nghiệp CNTT đã được ban hành hơn 17 năm, nhiều quy định chưa điều chỉnh được những vấn đề phát sinh trong thực tiễn phát triển ngành CNTT như: chưa có khung pháp lý định hình khái niệm công nghệ số, công nghiệp công nghệ số; còn khoảng trống về phát triển dữ liệu số....

Vì vậy, việc xây dựng dự án Luật Công nghiệp công nghệ số là cần thiết để thúc đẩy ngành này trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo môi trường thuận lợi nhất để “nuôi dưỡng” và phát triển doanh nghiệp công nghệ số. Đồng thời, dự án Luật cũng được hy vọng sẽ thúc đẩy thông minh hoá các ngành, lĩnh vực thông qua hội tụ công nghệ số vào các hoạt động quản lý, điều hành, sản xuất trong các ngành, lĩnh vực để tối ưu hoá hiệu suất, hiệu quả, năng suất, khả năng tự động thích ứng với sự thay đổi của các ngành, lĩnh vực.

Về cơ chế thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số, đại diện Hội Truyền thông số đánh giá quy định “doanh nghiệp tham gia thử nghiệm được miễn trách nhiệm dân sự nếu gây thiệt hại cho Nhà nước, được loại trừ trách nhiệm hành chính, hình sự khi đã tuân thủ đúng, đầy đủ quy định và các yêu cầu theo văn bản cho phép thử nghiệm của cơ quan có thẩm quyền” mang tính đột phá, tạo không gian thử nghiệm an toàn cho các doanh nghiệp triển khai công nghệ số mới. 

Tuy nhiên, hiện dự thảo Luật quy định trường hợp doanh nghiệp thử nghiệm chịu trách nhiệm pháp lý là “trong quá trình thử nghiệm đã biết hoặc buộc phải biết về nguy cơ rủi ro nhưng không kịp thời thông tin, báo cáo cơ quan có thẩm quyền và không áp dụng đầy đủ biện pháp phù hợp để ngăn ngừa, hạn chế mức độ thiệt hại có thể xảy ra” dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp trong thực tế. Trong quá trình thử nghiệm, có thể cả Nhà nước và doanh nghiệp đều chưa lường hết được toàn bộ rủi ro có thể xảy ra; vì vậy không thể bắt buộc doanh nghiệp “buộc phải biết” về rủi ro.

Do đó, đồng chí đề xuất quy định trường hợp doanh nghiệp thử nghiệm phải chịu trách nhiệm pháp lý là “doanh nghiệp có khả năng biết về nguy cơ rủi ro nhưng không thông báo đến cơ quan có thẩm quyền và không áp dụng đầy đủ các biện pháp đảm bảo an toàn đã nêu trong hồ sơ thử nghiệm để ngăn ngừa, hạn chế mức độ thiệt hại có thể xảy ra”. Các điều kiện doanh nghiệp có khả năng biết về thiệt hại bao gồm: doanh nghiệp tự mình phát hiện ra lỗi của sản phẩm/dịch vụ, người dùng hoặc các bên khác cảnh báo/phản hồi về lỗi của sản phẩm, dịch vụ.

Bên cạnh đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tham khảo thêm các kinh nghiệm quốc tế để chỉnh lý thời gian thực hiện thử nghiệm và thẩm quyền cho phép triển khai cơ chế thử nghiệm đảm bảo tính hiệu quả, tính khả thi trên thực tế.

Đại diện Bộ Công Thương cho biết, hoạt động dịch vụ thu thập, lưu trữ, kinh doanh, khai thác, phân tích, xử lý và các hoạt động khác liên quan đến dữ liệu số trong công nghiệp công nghệ số là hoạt động dịch vụ liên quan đến dữ liệu, thuộc phạm vi điều chỉnh của dự án Luật Dữ liệu (đã được Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất thông qua đề nghị xây dựng Luật). Vì vậy, đề nghị lược bỏ nội dung này khỏi dự thảo Luật. Trong trường hợp cần thiết phải quy định rõ các hoạt động dịch vụ liên quan đến dữ liệu số, đồng chí đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo có ý kiến để bổ sung vào dự án Luật dữ liệu cho đầy đủ.

Đối với quy định liên quan đến hàng hoá tân trang, đồng chí đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát dự thảo Luật với Nghị định số 77/2023/NĐ-CP ngày 02/11/2023 về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và Nghị định số 66/2024/NĐ-CP ngày 17/6/2024 về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Nghị định về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh Châu Âu và Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len đề tránh chồng chéo trong hệ thống pháp luật; đồng thời giải trình rõ nội dung này tại dự thảo Tờ trình.

Đồng chí cũng đề nghị cần làm rõ các tiêu chí “thông minh hoá” các ngành, lĩnh vực, qua đó thể hiện sự khác biệt với các tiêu chí về chuyển đổi số hiện nay; giải trình mục đích của việc dán nhãn sản phẩm công nghệ số là người sử dụng chỉ được sử dụng các sản phẩm có dán nhãn hay chỉ những sản phẩm dán nhãn mới được đưa ra thị trường…

Làm rõ phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, tránh chồng chéo trong hệ thống pháp luật

Phát biểu kết luận phiên họp, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Tiến Dũng đánh giá cao hồ sơ dự án Luật Công nghiệp công nghệ số do Bộ Thông tin và Truyền thông chuẩn bị, ghi nhận và đánh giá cao các ý kiến của thành viên Hội đồng thẩm định; đồng thời cho biết đây là dự án Luật mới và có nhiều nội dung khó như trí tuệ nhân tạo, tài sản số...

Theo Thứ trưởng, dự thảo Luật đã thể chế hoá các nội dung của Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 

Tuy nhiên, dự thảo Luật có một số nội dung mới so với các chính sách đã được Chính phủ thông qua như thông minh hoá các ngành, lĩnh vực; tân trang hàng hoá; khởi nghiệp sáng tạo số… Cơ quan chủ trì soạn thảo cần bổ sung đánh giá tác động đối với những nội dung này.

Cùng với đó, dự án Luật có nhiều nội dung liên quan đến Luật Công nghệ thông tin, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Đầu tư, Luật Công nghiệp trọng điểm (đang được xây dựng). Vì vậy, Thứ trưởng đề nghị cơ quan chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành để phân định rõ phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Luật, tránh chồng chéo trong hệ thống pháp luật.

Thứ trưởng Trần Tiến Dũng cũng lưu ý cơ quan chủ trì soạn thảo cần phải giải thích các khái niệm mới được đưa vào trong Luật và thể hiện rõ nội hàm của những khái niệm đó; thiết kế các quy định về ưu đãi một cách tập trung, tránh dàn trải, trong đó thể hiện rõ loại hình doanh nghiệp, dự án như thế nào sẽ nhận ưu đãi, từ đó xây dựng cơ chế, quy trình ưu đãi cho phù hợp. 

Bên cạnh đó, cơ quan chủ trì cần bổ sung trách nhiệm pháp lý của người tạo ra sản phẩm trí tuệ nhân tạo; nghiên cứu quy định mang tính nguyên tắc đối với việc quản lý tài sản số; chi tiết hoá các điều khoản tại dự thảo Luật; tăng cường phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính ngay tại Luật, giảm tải áp lực phải sửa đổi các quy định, quy hoạch của địa phương…

LS