• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Cột mốc phát triển

Việt Nam đặt ra mục tiêu đến năm 2020 phải cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để định hướng phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu đã đặt ra, thực tiễn đang đòi hỏi có sự giải đáp một cách rõ ràng, cụ thể các nội dung mang tính cốt lõi như: thế nào một nước công nghiệp, những tiêu thức chứng tỏ một nước đã trở thành một nước công nghiệp...

17/11/2005 18:30

Tại Hội thảo “Tiêu chí Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” do Ban Kinh tế Trung ương tổ chức, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trương Văn Đoan đề ra tiêu chí: “GDP bình quân đầu người đạt trên 5.000 USD/năm, đây là tiêu chí tổng hợp quan trọng nhất. Cơ cấu nền kinh tế (tính theo GDP) phải tiên tiến, với tỷ trọng công nghiệp chiếm khoảng 45-50%, dịch vụ chiếm khoảng 40-50%, nông nghiệp khoảng 10%”.

Thừa nhận tính chuẩn mực của các tiêu chí nói trên, song nhiều đại biểu cùng nhận xét, nếu áp các tiêu chí này thì Việt Nam còn xa mới đạt được một nước công nghiệp. Lý do là, GDP bình quân đầu người của nước ta hiện mới đạt 630 USD, cơ cấu GDP còn chưa tiến bộ (công nghiệp chiếm trên 40%, dịch vụ chiếm gần 39%, nông nghiệp còn chiếm trên 20%). Với điểm xuất phát thấp như hiện nay, với các đòi hỏi nêu trên, nền kinh tế phải đạt mức tăng trưởng trung bình trong 15 năm tới là trên 15%/năm. Trong khi đó, các dự báo về kinh tế Việt Nam đến năm 2020 đều cho kết quả tăng trưởng GDP trung bình năm chỉ từ 8% đến 8,5%. Như vậy, xét về chỉ tiêu quan trọng nhất cho một nước công nghiệp là GDP bình quân đầu người thì chúng ta mới đạt 1.800-2.200 USD/người vào năm 2020.

Về phần mình, ông Đinh Văn Ân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, lại cho rằng: “Tiêu chí về một nước công nghiệp cũng chưa phải đã có sự nhất trí hoàn toàn trên thế giới. Và thông thường, các nước cũng không đặt ra thời hạn cho việc hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, mà thường là khi quá trình đó diễn ra và chín muồi thì được đánh giá lại. Vì vậy, đề ra các tiêu chí cơ bản cho Việt Nam có dựa trên các khái niệm và tiêu chí đánh giá trên thế giới sẽ chỉ mang tính chất phác họa và về nguyên tắc, không nên có nhiều chỉ tiêu quá cụ thể”.

Theo ông Võ Trí Thành, Trưởng ban Nghiên cứu Chính sách hội nhập (Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương), thì khi kinh tế tri thức và dịch vụ thực sự là một cuộc cách mạng trên thế giới, khái niệm công nghiệp hóa được thể hiện ở ba tiêu thức chính sau: sự gia tăng tỷ trọng công nghiệp chế tác trong GDP; vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế, đặc biệt là dịch vụ có giá trị gia tăng và hàm lượng chất xám cao; tính liên kết giữa công nghiệp chế tác và công nghệ cũng như dịch vụ. Ông Thành đánh giá: “Trong ba tiêu thức trên thì tiêu thức về tính liên kết là điểm quan trọng nhất của công nghiệp hóa, tức là không phải từng ngành, từng lĩnh vực phát triển cho tự thân là chính, mà nó phải lan tỏa ra toàn bộ nền kinh tế”.

Từ các tiêu thức trên, nhiều đại biểu đồng tình với lộ trình mà ông Đinh Văn Ân đề xuất. Cụ thể, từ năm 2005 đến 2010, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp và các ngành có lợi thế so sánh; hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong GDP; bắt đầu hội nhập rộng rãi vào nền kinh tế thế giới. Từ năm 2011 đến 2015, trên cơ sở phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh, huy động tốt vốn đầu tư cho các ngành sản xuất có hiệu quả và đưa các ngành này trở thành các ngành mũi nhọn; nâng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng GDP lên khoảng 80-85%, tỷ trọng lao động phi nông nghiệp đạt 50-60%. Từ năm 2016-2020, đạt được mục tiêu như đề ra trong tiêu chí về nước công nghiệp của Việt Nam, với tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85-90% GDP, tăng trưởng kinh tế có tính bền vững.

Để thực hiện được lộ trình trên, ông Ân kiến nghị, cần xác định và phát hiện đúng lợi thế so sánh của các ngành, các vùng trong cả nước để phát triển. “Điều này rất quan trọng, vì có như vậy chúng ta mới vừa đẩy mạnh được công nghiệp hóa, vừa tránh được sự phát triển công nghiệp duy ý trí không có hiệu quả kinh tế như trước đây. Các chỉ tiêu về công nghiệp hóa hoặc chỉ tiêu về một nước công nghiệp đến năm 2020 chỉ nên là các chỉ tiêu mang tính định hướng, mà không phải là các chỉ tiêu cứng nhắc”, ông Ân nói.

Đồng tình với kiến nghị trên, ông Trương Văn Đoan bổ sung: “Một nước công nghiệp phải là nước chủ động và thực hiện tốt hội nhập kinh tế với thế giới bên ngoài”. Cụ thể, theo ông Đoan, nền kinh tế Việt Nam phải có khả năng cạnh tranh bình đẳng về thương mại trong các quan hệ đa phương và song phương với các nước khác; xuất khẩu tăng với tốc độ gấp 1,5 lần trở lên so với tốc độ tăng GDP; thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt vào các ngành có công nghệ cao; trả được nợ nước ngoài theo cam kết và có vốn đầu tư đáng kể ra nước ngoài.

Còn ông Võ Trí Thành thì cho rằng, chính sách công nghiệp củaViệt Nam hiện nay phải nhằm vào việc cổ phần hóa, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, phát huy hiệu quả của các doanh nghiệp này. “Đó còn là việc giải quyết tình trạng lưỡng thể của công nghiệp Việt Nam, với một bên là một số ngành xuất khẩu tương đối có khả năng cạnh tranh, mà vai trò là doanh nghiệp nhà nước, FDI và tư nhân, với một bên là khu vực công nghiệp nặng thay thế nhập khẩu rất kém hiệu quả, đòi hỏi rất nhiều vốn, mà chủ yếu là khu vực doanh nghiệp nhà nước, một số liên doanh giữa doanh nghiệp nhà nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài”, ông Thành nói.

 

 

(Bộ Kế hoạch và Đầu tư)