Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
![]() |
Rừng tự nhiên ở Đắk Lắk. Ảnh minh họa |
Trong chuyến thăm và làm việc với các tỉnh Tây Nguyên hồi tháng 6 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có quyết định quan trọng là đóng cửa rừng tự nhiên ở các tỉnh trong khu vực. Ông đánh giá như thế nào về quyết định này?
Ông Phạm Ngọc Nghị: Việc đóng cửa rừng tự nhiên theo chỉ đạo của Thủ tướng được hiểu là: Thứ nhất, không khai thác rừng tự nhiên. Thứ 2, không chuyển đổi mục đích sử dụng rừng tự nhiên, kể cả rừng tự nhiên nghèo sang mục đích sử dụng khác. Thứ 3, không những chỉ ngừng việc khai thác, sử dụng rừng tự nhiên mà cần phải có những giải pháp tích cực để bảo vệ, khôi phục được rừng.
Có thể nói, đây là sự chỉ đạo rất cần thiết, thể hiện sự quyết tâm, quyết liệt, kịp thời của Chính phủ trong việc thực hiện giải pháp cấp bách để bảo vệ tài nguyên rừng hiện nay. Đồng thời, với việc dừng mọi hoạt động liên quan đến việc khai thác, sử dụng rừng tự nhiên, Thủ tướng chỉ đạo huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân quyết tâm khôi phục, phát triển rừng bền vững. Đây là chủ trương mang tính nền tảng, vững chắc để bảo vệ và khôi phục rừng Tây Nguyên của Chính phủ.
Tôi cho rằng, vì sự nghiệp bảo vệ môi trường chung của nhân loại, vì tương lai của con cháu chúng ta thì việc đóng cửa rừng, dừng chuyển đổi rừng tự nhiên sang mục đích khác là cần thiết và cấp bách.
Đắk Lắk là địa phương có diện tích rừng lớn ở Tây Nguyên, trước quyết định này của Thủ tướng, tỉnh sẽ có những giải pháp nào để thực hiện?
Ông Phạm Ngọc Nghị: Theo kết quả kiểm kê rừng năm 2014, tỉnh Đắk Lắk có 507.489 ha rừng, xếp thứ 4 về diện tích nhiều rừng của các tỉnh Tây Nguyên (sau các tỉnh Gia Lai, Kom Tum và Lâm Đồng).
Trước mắt, UBND tỉnh thực hiện một số nhóm giải pháp sau đây:
Thứ nhất, chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các cấp, các chủ rừng, lực lượng bảo vệ rừng, các cơ quan có chức năng và các tổ chức chính trị, xã hội vào cuộc quyết liệt, đấu tranh một cách có hiệu quả, xử lý nghiêm những hành vi phá hoại tài nguyên rừng, làm rõ trách nhiệm người phụ trách từng địa bàn, của chính quyền địa phương.
Thứ hai, tiến hành xây dựng, trình phê duyệt và triển khai Dự án bảo vệ, phục hồi rừng bền vững giai đoạn 2016-2020 theo hướng dẫn chung của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong đó đặt ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cần đạt được, triển khai các giải pháp tổng hợp và các giải pháp xử lý đồng bộ những vấn đề dân sinh, kinh tế đang tạo áp lực lớn đối với rừng, đặc biệt là giải pháp về nguồn lực, kinh phí đầu tư.
Thứ ba, rà soát các dự án giải quyết đất cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, các dự án ổn định dân di cư tự do trước đây đã dự kiến lấy từ quỹ đất có rừng do không thể cân đối từ quỹ đất khác; các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, phát triển kinh tế, xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn phải chuyển đổi rừng để xây dựng các công trình công cộng; các dự án đang triển khai thực hiện cần phải chuyển mục đích sử dụng rừng nghèo tại công ty lâm nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty TNHH 2 thành viên theo chủ trương của Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính phủ để báo cáo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chính phủ xem xét cụ thể, cho chủ trương giải quyết.
Những thuận lợi và khó khăn khi Đắk Lắk triển khai các giải pháp để đóng cửa rừng tự nhiên một cách hiệu quả là gì, thưa ông?
Ông Phạm Ngọc Nghị: Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh Đắk Lắk luôn nhận thức rằng, rừng giữ vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế, văn hóa, sinh thái môi trường và cả an ninh quốc phòng đối với tỉnh, cho nên cấp ủy, chính quyền luôn giữ vững quan điểm phải huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để thực hiện các biện pháp cấp bách để quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk đã ban hành Chỉ thị số 34-CT/TU ngày 19/01/2015 về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác quản lý bảo vệ rừng và Chương trình số 40-CTr/TU ngày 08/8/2014 triển khai thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/03/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp. UBND tỉnh cũng đã có nhiều chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo để triển khai hoạt động cụ thể.
Chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên của Thủ tướng Chính phủ đã tạo ra sự quyết tâm, là động lực để cấp ủy, chính quyền địa phương và cả hệ thống chính trị của tỉnh Đắk Lắk triển khai thực hiện quyết liệt, có hiệu quả các Chỉ thị của Tỉnh ủy, chương trình, kế hoạch của UBND tỉnh đã ban hành về công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Đây chính là điều kiện thuận lợi, có ý nghĩa bao quát đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh. Điều thuận lợi nữa là, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và UBND các tỉnh Tây Nguyên để xây dựng và triển khai Dự án bảo vệ, phục hồi rừng bền vững giai đoạn 2016-2020 vùng Tây Nguyên, đây là cơ sở và là nền tảng quan trọng, điều kiện cần thiết để bảo vệ và khôi phục rừng.
Tuy nhiên, để triển khai có hiệu quả các giải pháp thực hiện chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên, tỉnh Đắk Lắk cũng sẽ gặp những khó khăn nhất định, như: Việc không chuyển đổi mục đích sử dụng rừng tự nhiên nghèo sang mục đích khác chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội và quy hoạch sử dụng đất đai của tỉnh đã được Chính phủ phê duyệt, trong đó có vấn đề phân bổ lại dân cư, khai thác tiềm năng, thế mạnh về đất đai, khí hậu của vùng Tây Nguyên. Việc dừng chuyển đổi rừng tự nhiên nghèo sang mục đích khác cũng tạo ra khó khăn cho địa phương trong thực hiện các dự án giải quyết đất đai để ổn định sản xuất, đời sống đồng bào tại chỗ và đồng bào di cư tự do từ các tỉnh khác đến đang còn sinh sống trong rừng, chủ yếu dựa vào quỹ đất rừng.
Bên cạnh đó, hiện nay gần 30% diện tích đất lâm nghiệp tại tỉnh Đắk Lắk do các công ty lâm nghiệp quản lý. Để thực hiện đổi mới các công ty lâm nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị, với đặc thù tư liệu sản xuất chính là đất lâm nghiệp, thì giải pháp chủ yếu là thu hút tập đoàn kinh tế mạnh, doanh nghiệp lớn có kinh nghiệm, có công nghệ kỹ thuật tiên tiến, có năng lực tài chính lớn, đầu tư đồng bộ từ sản xuất nguyên liệu và đầu tư nhà máy chế biến, xây dựng thị trường tiêu thụ rộng lớn, đầu tư phát triển nông lâm nghiệp ở những vùng kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn trong khi Nhà nước chưa đủ nguồn lực để đầu tư phát triển vùng này. Do đó, việc thực hiện các đề án đổi mới của các công ty nông lâm nghiệp và việc thu hút đầu tư vào Tỉnh cũng sẽ gặp khó khăn nhất định.
Tuy vậy, trong thời gian tới, với sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và sự chung tay của cả hệ thống chính trị, tôi tin tưởng rằng địa phương sẽ vượt qua được các khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện và công cuộc bảo vệ, khôi phục rừng sẽ thành công.
Xin cảm ơn ông!
Minh Hùng