Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Bệnh nhân được tư vấn tại phòng khám BSGĐ, BV quận Gò Vấp. Ảnh: TNO. |
Tại Việt Nam, từ năm 1998, Dự án phát triển đào tạo BSGĐ với sự tài trợ bởi quỹ China Mediacare Board of New York (CMB) đã được Bộ Y tế phê duyệt. Hiện nay, đã có rất nhiều trường đại học có chuyên ngành y học gia đình. Đặc biệt, BSGĐ đã được triển khai thành các mô hình phù hợp với điều kiện khám chữa bệnh tại Việt Nam như trung tâm BSGĐ, phòng khám BSGĐ.
Theo thống kê của Bộ Y tế, hiện nay nước ta có 6 tỉnh, thành phố có mô hình BSGĐ là TPHCM, Hà Nội, Khánh Hoà, Thừa Thiên-Huế, Tiền Giang và Bình Dương với 240 phòng khám.
Trong năm 2014, các phòng khám này đã thực hiện khám, chữa bệnh cho 807.000 lượt bệnh nhân, thực hiện 12.000 ca thủ thuật, chuyển tuyến 14.400 ca, tư vấn 10.000 cuộc. Tại 158/240 phòng khám đã thực hiện quản lý sức khoẻ cho hơn 195.000 người bệnh và khám sàng lọc cho 500.000 lượt người.
Một số phòng khám BSGĐ có hoạt động khá tốt như Phòng khám đa khoa tư nhân Thành Công (Hà Nội), Phòng khám BSGĐ tại BV quận 2 TPHCM. Các phòng khám này đã sử dụng bệnh án điện tử, phần mềm quản lý phòng khám, tổ chức hội chẩn trực tuyến. Bên cạnh đó đã thực hiện công tác phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, tham gia truyền thông phòng bệnh khá hiệu quả.
Đẩy mạnh việc kiện toàn và thành lập phòng khám BSGĐ
Theo PGS.TS Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh (Bộ Y tế), mô hình bệnh tật ở nước ta là mô hình bệnh tật kép. Các bệnh lây nhiễm, suy dinh dưỡng vẫn ở mức khá cao, trong khi nhóm các bệnh không lây nhiễm và các tai nạn thương tích tăng nhanh, dẫn đến nhu cầu khám chữa bệnh của người dân ngày càng tăng.
Nhưng việc phát triển các mô hình chăm sóc sức khỏe khác sẽ gặp phải khó khăn hơn nhiều so với mô hình BSGĐ vì cần đến nhiều yếu tố như nguồn lực, nguồn tài chính, quỹ đất… Vì vậy, mô hình BSGĐ sẽ giúp sàng lọc bệnh tật, chuyển tuyến phù hợp, từ đó góp phần quan trọng giảm quá tải BV ở tuyến trên.
Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, mô hình BSGĐ vẫn chưa được quan tâm, đầu tư tương xứng; hoạt động còn tản mạn, hiệu quả chưa cao; nguồn nhân lực có chuyên môn về y học gia đình còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế; việc thành lập phòng khám gia đình còn chưa hấp dẫn với khối tư nhân, nên các phòng khám BSGĐ tư nhân còn quá ít.
Đặc biệt, người dân chưa hiểu đầy đủ về phòng khám BSGĐ vì vẫn quan niệm BSGĐ chỉ là đến nhà thăm khám và chữa bệnh những bệnh đơn giản, thông thường.
Để triển khai phòng khám BSGĐ tại Việt Nam 2013-2020 có hiệu quả, theo PGS.TS Lương Ngọc Khuê, cần đẩy mạnh việc kiện toàn và thành lập phòng khám BSGĐ tại các tỉnh và thành phố trong cả nước; tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực y học gia đình; xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo để cấp chứng chỉ hành nghề BSGĐ; xây dựng, ban hành mẫu bệnh án thống nhất, đặc biệt là xây dựng bệnh án điện tử y học gia đình và phần mềm tin học quản lí hoạt động phòng khám BSGĐ.
Bên cạnh đó, để người dân hiểu được vai trò chức năng của BSGĐ cần phải tổ chức truyển thông về mô hình, đồng thời nâng cao chất lượng và khả năng cung cấp dịch vụ của các phòng khám BSGĐ.
Kinh nghiệm từ TPHCM, một địa phương đã có 20/23 quận, huyện thành lập phòng khám BSGĐ với cơ cấu từ 1-4 bàn khám tại các khoa khám bệnh của các BV và 136 phòng khám BSGĐ tại các trạm y tế phường, xã do bác sĩ đã được đào tạo chuyên môn về y học gia đình phụ trách, thì cần đẩy mạnh phát triển thành lập phòng khám BSGĐ ở các phường, xã để cập nhật và theo dõi sát được sức khoẻ của người bệnh và các hộ gia đình.
Bên cạnh đó, cần xem xét việc thực hiện giá dịch vụ khám chữa bệnh tại các phòng khám BSGĐ sao cho phù hợp với điều kiện thu nhập hiện nay của người dân.
Theo đại diện của Sở Y tế TP Hà Nội, để phát triển mô hình BSGĐ cần chú trọng việc thu nhận phản hồi thông tin của người bệnh một cách nhanh chóng, khoa học, vì hiện nay đa số các phòng khám BSGĐ vẫn đang thực hiện phản hồi theo phương thức thủ công, chưa đưa bệnh án điện tử vào kết nối với mạng lưới y học gia đình, vì vậy hiệu quả của mô hình hoạt động chưa cao.
Đặc biệt, cần đẩy mạnh tuyên truyền cho người dân hiểu về vai trò và sự thuận lợi của BSGĐ, đồng thời đẩy mạnh phát triển mô hình này với hệ thống tư nhân.
Thanh Thủy