Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch Trịnh Thị Thủy tin tưởng trong thời gian tới, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam thực sự trở thành biểu tượng sinh động của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - Ảnh: VGP/ Văn Hiền
Thông điệp sâu sắc ấy đã được các nghệ nhân và đại diện cơ quan quản lý văn hoá đồng lòng chia sẻ tại Hội nghị tổng kết công tác phối hợp với các địa phương huy động đồng bào dân tộc tham gia tổ chức hoạt động tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, do Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức chiều 18/4 tại Hà Nội nhằm chào mừng Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam (19/4).
Mong muốn sự vào cuộc mạnh mẽ của địa phương
Gắn bó với Làng suốt hơn 10 năm qua, Nghệ nhân Ưu tú Y Sinh cho rằng, để "bảo tàng sống" này vận hành thực sự hiệu quả, cần có chính sách hỗ trợ đủ mạnh. Hiện nay, các nghệ nhân, đồng bào tham gia hoạt động tại Làng chủ yếu sống nhờ vào mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, trung bình khoảng 4,8 triệu đồng/người/tháng (theo Thông tư 05/2024/TT-BVHTTDL).
Nghệ nhân Ưu tú Y Sinh cũng thẳng thắn chỉ rõ: "Con số này dù đã tăng so với trước nhưng vẫn còn rất hạn chế so với chi phí sinh hoạt. Nhiều nghệ nhân lớn tuổi vẫn bám trụ với Làng vì tình yêu văn hóa. Nhưng lớp trẻ thì không dễ giữ chân nếu chỉ trông vào khoản hỗ trợ ít ỏi đó. Họ cần có thu nhập để sống, để nuôi gia đình, chứ không thể chỉ sống bằng lòng tự hào dân tộc".
Không chỉ về tài chính, nhiều ngôi nhà dân tộc vẫn thiếu thốn đạo cụ, nông cụ, đồ dùng truyền thống. Những hiện vật như cối xay, chum ché, khèn, khố, chiêng… những thứ vốn là linh hồn văn hóa lại trở nên hiếm hoi. Bởi lẽ, không có hiện vật, không gian tái hiện văn hóa sẽ trở nên khô cứng, thiếu sức sống. Khách đến chỉ thấy kiến trúc, không thấy được chiều sâu văn hóa.
Ông Trịnh Ngọc Chung, Cục trưởng Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP/ Văn Hiền
Từ thực tế trên, các nghệ nhân, cán bộ quản lý và nhiều địa phương cùng chung một kiến nghị: Để gìn giữ văn hóa dân tộc tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, cần có cơ chế phối hợp giữa Trung ương và địa phương. Không thể chỉ trông chờ vào ngân sách Nhà nước và lòng tự nguyện của đồng bào.
Người có uy tín Đàng Chí Quyết (đồng bào Chăm, tỉnh Ninh Thuận) gắn bó nhiều năm với Làng khẳng định: "Muốn bảo tồn di sản sống thì phải chăm lo cho người mang di sản. Mỗi tỉnh, mỗi huyện cần có chính sách riêng để hỗ trợ nghệ nhân, có thể là mức phụ cấp hằng tháng, có thể là hỗ trợ đạo cụ, phương tiện. Nhưng nhất thiết phải có sự vào cuộc bài bản".
Thực tế, một số địa phương đã tiên phong thực hiện. Tỉnh Đắk Lắk hỗ trợ thêm 1 triệu đồng/người/tháng cho nghệ nhân Ê Đê. Huyện Nam Đông (Thừa Thiên Huế) hỗ trợ nhóm Cơ Tu 500.000 đồng/người/tháng. Các mô hình này được đánh giá cao, tạo động lực để nghệ nhân yên tâm bám Làng, giữ nghề.
Đơn cử như tỉnh Sóc Trăng - nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống, chính quyền tỉnh đã duy trì việc hỗ trợ nghệ nhân dân tộc Khmer tham gia hoạt động tại Làng suốt nhiều năm qua. Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh, từ năm 2020 đến nay, địa phương đã chi hơn 300 triệu đồng từ nguồn tự chủ để hỗ trợ sinh hoạt cho nghệ nhân. Thêm vào đó, hơn 200 triệu đồng được dùng để mua sắm trang phục, đạo cụ biểu diễn… Dẫu vậy, bắt đầu từ năm 2024, hoạt động này đứng trước nguy cơ gián đoạn do vướng mắc về nguồn chi ngân sách.
"Chúng tôi đang kiến nghị tỉnh xây dựng một nghị quyết riêng về hỗ trợ nghệ nhân. Phải có cơ chế rõ ràng thì mới duy trì được lâu dài", đại diện đơn vị Sở này cho biết.
Cùng với đó, nhiều ý kiến cho rằng, thay vì trải rộng, các địa phương nên chọn một số di sản tiêu biểu, có giá trị đặc trưng để đầu tư chiều sâu. Việc xây dựng đội ngũ nghệ nhân kế cận, đầu tư phục dựng nghi lễ, truyền dạy nghề thủ công, tổ chức giao lưu văn hóa định kỳ… sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ hơn.
Ngoài ra, việc thiết kế các hoạt động tại Làng cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ với các địa phương, để đảm bảo tính đại diện, đa dạng và bản sắc. Tránh tình trạng một số dân tộc được giới thiệu quá nhiều trong khi số khác lại thiếu vắng hình ảnh.
Góp phần làm sống động "bảo tàng sống" giữa lòng Thủ đô
Theo ông Trịnh Ngọc Chung, Cục trưởng Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Bộ VHTTDL), từ năm 2010 đến nay, ba sự kiện văn hóa thường niên được tổ chức tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam gồm: Ngày hội "Sắc xuân trên mọi miền Tổ quốc", sự kiện "Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam" (19/4) và "Tuần Đại đoàn kết các dân tộc – Di sản văn hóa Việt Nam".
Từ năm 2020, Làng đã mời luân phiên 16 nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số về sinh hoạt, biểu diễn và tái hiện đời sống truyền thống tại Làng theo hợp đồng 3–6 tháng. Các nhóm dân tộc gồm: Tày, Nùng, Dao, Mông, Mường, Khơ Mú, Thái, Lào, Tà Ôi, Cơ Tu, Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng, Raglai, Ê Đê, Khmer… với số lượng từ 6–8 người/nhóm.
Hoạt động trải dài từ tái hiện nhà cửa, phong tục, nghi lễ, trò chơi dân gian đến giao lưu văn hóa và đón khách tham quan, góp phần làm sống động "bảo tàng sống" giữa lòng Thủ đô.
Quang cảnh Hội nghị. Ảnh: VGP/Văn Hiền
Tính đến cuối năm 2024, Làng đã huy động gần 9.000 nghệ nhân, già làng, trưởng bản từ 350 lượt địa phương, đại diện cho 481 lượt dân tộc. Đặc biệt chú trọng mời đồng bào các dân tộc ít người tham gia. Đã có 101 hoạt động chuyên đề, sự kiện theo tháng được tổ chức với nhiều chủ đề phong phú như "Bác Hồ với Tây Nguyên", "Biển đảo trong lòng đồng bào", "Vui Tết Độc lập", "Món ngon đầu năm"… cùng hơn 230 lễ hội, nghi lễ truyền thống được tái hiện.
Mức hỗ trợ sinh hoạt cho đồng bào là 4,8 triệu đồng/người/tháng, từ nguồn thu sự nghiệp và ngân sách Nhà nước. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định chính sách hỗ trợ trực tiếp cho đồng bào dân tộc tham gia hoạt động tại Làng.
Hiện đã có 61/63 tỉnh, thành phố phối hợp tổ chức các hoạt động tại Làng. Nhiều địa phương có tần suất tham gia cao như: Sơn La (47 lần), Hà Giang (31), Hòa Bình (25), Đắk Lắk (22), Kon Tum (18), Ninh Thuận (17), Lai Châu (16), Sóc Trăng (14)…
Một số chương trình lớn để lại dấu ấn như: lễ hội đua bò Bảy Núi (An Giang), đua ngựa dân tộc Mông (Lào Cai), tái hiện chợ nổi Nam Bộ (Cần Thơ), khánh thành quần thể Tháp Chăm – Chùa Khmer (Ninh Thuận, Sóc Trăng), các ngày hội văn hóa vùng miền…
Nghệ nhân Ưu tú Y Sinh giới thiệu văn hóa Xơ Đăng đến đông đảo bạn bè du khách trong và ngoài nước đến với Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam - Ảnh: VGP/ Văn Hiền
Giai đoạn đến 2030, Làng đặt mục tiêu mời thường xuyên 40–50% thành phần dân tộc trong tổng số 54 dân tộc Việt Nam tham gia sinh hoạt hằng ngày, mỗi nhóm tối thiểu 8 người, đảm bảo tính đại diện vùng miền và luân phiên giữa các cộng đồng.
Cục Văn hóa các dân tộc đề nghị UBND các tỉnh, thành phố tiếp tục phối hợp, ưu tiên lựa chọn Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam là địa điểm tổ chức các sự kiện văn hóa đặc sắc của địa phương; đồng thời đưa nội dung huy động đồng bào tham gia hoạt động tại Làng vào kế hoạch hằng năm.
Theo Thứ trưởng Trịnh Thị Thủy, sau 15 năm hình thành và phát triển, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam đã chứng minh hiệu quả của mô hình gắn bó, đồng hành giữa Bộ, các địa phương và cộng đồng dân tộc. Chỉ khi có sự phối hợp chặt chẽ, nhất quán và thực chất, việc bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc mới bền vững và lan tỏa.
"Tôi mong muốn, từ Hội nghị này, chúng ta cùng xác lập một định hướng phát triển lâu dài, bền vững hơn để Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam thực sự trở thành biểu tượng sinh động của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; là điểm đến văn hóa hấp dẫn, giàu bản sắc và mang tính nhân văn sâu sắc", Thứ trưởng Trịnh Thị Thuỷ nhấn mạnh.
Đại diện Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cũng bày tỏ tin tưởng rằng, với sự đóng góp từ các địa phương, nghệ nhân và cộng đồng đang hoạt động tại Làng, chính sách sẽ tiếp tục được hoàn thiện, phương thức phối hợp sẽ được đổi mới, qua đó huy động được sự tham gia sâu rộng, thực chất hơn từ cộng đồng các dân tộc trên cả nước.
Lắng nghe từng tiếng nói tâm huyết, từng nguyện vọng chân thành của nghệ nhân, đại diện các địa phương và cơ quan quản lý tại hội nghị, có thể thấy rõ một điểm chung: Muốn ngọn lửa văn hóa bừng sáng không chỉ trong lễ hội mà cả trong đời sống, cần nhiều hơn sự chung tay từ các địa phương nơi lưu giữ hồn cốt dân tộc. Khi mỗi nghệ nhân được trao cơ hội tự kể câu chuyện văn hóa của mình, "Ngôi nhà chung" sẽ không chỉ là điểm đến, mà là nơi di sản sống dậy, lan tỏa và trường tồn giữa lòng Thủ đô.
Văn Hiền