• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Giảm nhập siêu từ thị trường Ấn Độ

Gần đây Ấn Độ là một cường quốc mới nổi trên thế giới với tốc độ tăng trưởng GDP cao, trong năm tài chính 2009-2010 GDP tăng trưởng 7,4%, năm tài chính 2010-2011 GDP tăng trưởng 8,6% và dự kiến năm tài chính 2011-2012 GDP tăng trưởng 7,5 %.

16/02/2012 10:56

Tháng 10/2011, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã thực hiện chuyến thăm chính thức Ấn Độ và Chủ tịch đã trả lời trước báo chí: “Tôi dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam sang thăm cấp nhà nước tới Ấn Độ lần này, không có mục đích nào hơn là tiếp tục tăng cường hơn nữa tình đoàn kết, quan hệ hữu nghị truyền thống và đối tác chiến lược giữa hai nước. Tôi tin tưởng chuyến thăm sẽ thành công, góp phần làm sâu sắc thêm mối quan hệ vốn hết sức tốt đẹp đó.”

Tổng thống Pratibha Patil khi trả lời phỏng vấn của TTXVN đã nhấn mạnh: “Việt Nam là một trụ cột quan trọng trong “Chính sách hướng Đông” của Ấn Độ. Ấn Độ cam kết xây dựng quan hệ chặt chẽ với Việt Nam cả trên bình diện song phương và đa phương”.

Ấn Độ đã là một trong mười đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và Ấn Độ trong những năm gần đây phát triển mạnh, là điểm sáng trong quan hệ đối tác chiến lược.

Năm 2005, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam- Ấn Độ chỉ đạt 697 triệu USD, sau 4 năm đến năm 2010 đạt 2.739 triệu USD, tăng gấp 3,9 lần, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ 98 triệu USD năm 2005 lên 993 triệu USD năm 2010, tăng gấp hơn 10 lần.

Dự kiến kim ngạch thương mại song phương Việt Nam- Ấn Độ năm 2011 đạt 3.800 triệu USD. Như vậy, sau 5 năm từ năm 2005 đến năm 2011 kim ngạch thương mại song phương tăng gấp 5,5 lần, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng gấp 15 lần, mặc dù trong cơ cấu hàng xuất khẩu của ta không có các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: dầu thô, gạo, máy móc thiết bị có giá trị lớn…

Thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam trong những năm gần đây đã giảm nhiều, năm 2008 thâm hụt: -1.705 triệu USD, năm 2009: - 1.215 triệu USD, năm 2010: -753 USD và dự kiến năm 2011 thâm hụt khoảng – 600 triệu USD.

Để giải bài toán giảm nhập siêu từ thị trường Ấn Độ, theo chúng tôi cần chú ý các giải pháp sau:

Khuyến khích sản xuất trong nước

Hàng năm nước ta phải chi ra một lượng ngoại tệ lớn để nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi từ thị trường Ấn Độ, chiếm 23-25% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Ấn Độ.

Để các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước giảm nhập khẩu nguyên liệu, nhà nước nên có chính sách đồng bộ khuyến khích tăng diện tích trồng trọt nông sản, nhất là ngô, đậu tương để nâng cao sản lượng và chủ động nguồn cung nguyên liệu từ trong nước. Nhà nước cũng cần có chính sách đầu tư nghiên cứu cải tạo giống ngô, đậu tương mới cho sản lượng cao hơn, hỗ trợ và hướng dẫn nông dân áp dụng kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất, bảo đảm bao tiêu sản phẩm với giá cả ổn định. Có như vậy mới giúp nông dân có lợi nhuận và yên tâm hơn khi đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định, bền vững thay thế nguyên liệu nhập khẩu.

Đầu tư xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam

Các mặt hàng nông sản có thế mạnh của ta xuất khẩu vào thị trường Ấn Độ như: cà phê, hạt tiêu, cao su…chiếm 16-18% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Ấn Độ hàng năm, nhưng ta còn xuất thô quá nhiều, còn bán qua trung gian, còn bị ép giá nhất là khi xuất khẩu với số lượng lớn, chưa xây dựng được thương hiệu. Do vậy, giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản chưa cao, chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có.

Để tăng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam, các doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam bằng cách nâng cao, cải tiến các tiêu chuẩn hàng nông sản nội địa. Chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản (chất lượng, mẫu mã, bao bì, giá cả…).

Để sản xuất, chế biến các mặt hàng nông sản có chất lượng cao, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường, ta cần làm tốt từ khâu nghiên cứu tuyển chọn giống cây, chăm sóc, hạn chế tối đa dùng thuốc kích thích, phân hóa học, tăng cường dùng phân hữu cơ, phân vi sinh. Xây dựng các vùng trồng cây nông sản tập trung, chuyên canh. Thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch các sản phẩm nông sản theo đúng quy trình. Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp chế biến nông sản công nghệ cao để gia tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu.

Các doanh nghiệp cần đầu tư, nghiên cứu tạo ra một số sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ lực có thương hiệu Việt Nam, có sức cạnh tranh, có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.

Đầu tư xây dựng chiến lược phát triển thị trường

Các doanh nghiệp cần chủ động nghiên cứu thị trường nông sản Ấn Độ: nhu cầu, thị hiếu, giá cả, tập quán tiêu dùng, hệ thống phân phối, giao lưu hợp tác quốc tế…, mạnh dạn đưa hàng nông sản thương hiệu Việt Nam xâm nhập thị trường Ấn Độ bằng cách tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại: đem hàng nông sản thương hiệu Việt Nam tham gia các hội chợ, triển lãm, gửi bán tại các siêu thị, quảng cáo sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng…tiến hành các chiến dịch quảng bá trực tiếp hàng nông sản Việt Nam đến người tiêu dùng.

Các doanh nghiệp căn cứ vào khả năng, thực lực và các điều kiện thực tế của mình nên chủ động mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông sản thương hiệu Việt Nam góp phần phát triển các loại cây nông sản một cách bền vững để tăng giá trị xuất khẩu.

Các khuyến nghị

Đề nghị các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành hàng và các cơ quan quản lý nhà nước quan tâm nhiều hơn nữa đến thị trường Ấn Độ rộng lớn và nhiều tiềm năng. Kim ngạch xuất khẩu ban đầu có thể nhỏ nhưng ta sẽ có sự hiện diện vững chắc trên thị trường mang lại nguồn lợi bền vững.

Trong khi đông đảo các doanh nghiệp Ấn Độ chủ động đến Việt Nam thì số lượng các doanh nghiệp Việt Nam đến Ấn Độ còn hạn chế. Các doanh nghiệp Ấn Độ đã thành lập Phòng Kinh doanh Ấn Độ tại Việt Nam và có hơn 100 văn phòng đại diện thường trú của các công ty Ấn Độ tại Việt Nam. Trong khi đó chưa có một văn phòng đại diện của doanh nghiệp Việt Nam tại Ấn Độ. Còn nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm đúng mức đến thị trường Ấn Độ, ngại khó, hạn chế sự hiểu biết về thị trường, đối tác cũng là một nguyên nhân khiến xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Ấn Độ chưa phát huy hết tiềm năng.

Ấn Độ có 28 bang và 7 vùng lãnh thổ, mỗi bang và vùng lãnh thổ có chế độ chính sách riêng, chênh lệch giàu nghèo rất lớn với số dân nghèo hơn 400 triệu người, thu nhập dưới 1,25 USD/ ngày, do vậy các doanh nghiệp có thể khai thác nhiều đối tượng khách hàng và thị trường khác nhau của Ấn Độ.

Trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Ấn Độ có khung pháp lý tốt. Ấn Độ đã công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường đầy đủ, một loạt các hiệp định đã được ký kết khác, đặc biệt là Hiệp định Thương mại tự do hàng hóa ASEAN- Ấn Độ (AITIG) tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam phát huy lợi thế cạnh tranh trên thị trường Ấn Độ.

Trong thời gian tới để khai thác tốt hơn thị trường Ấn Độ cần có thêm các nỗ lực mở thị trường của các cơ quan nhà nước và đặc biệt là sự chủ động tích cực của các doanh nghiệp.