Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Cục trưởng Cục Thuế doanh nghiệp lớn (Cục Thuế, Bộ Tài chính): Thuế cần trở thành công cụ khuyến khích doanh nghiệp khai thác bền vững - Ảnh: VGP/VH
Phóng viên Báo Điện tử Chính phủ có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Phụng, chuyên gia cấp cao về thuế và quản trị doanh nghiệp, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Hiệp hội Kế toán và kiểm toán Việt Nam (VAA), nguyên Cục trưởng Cục Thuế doanh nghiệp lớn (Cục Thuế, Bộ Tài chính) xung quanh vấn đề này.
Thưa ông, hiện nay các doanh nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản đang áp dụng nhiều nghĩa vụ tài chính khác nhau - từ thuế tài nguyên, thuế thu nhập doanh nghiệp, phí bảo vệ môi trường cho đến tiền cấp quyền khai thác. Theo ông, hệ thống nghĩa vụ tài chính này đã hợp lý và đồng bộ chưa?
Ông Nguyễn Văn Phụng: Hiện các doanh nghiệp khai thác khoáng sản đang thực hiện nhiều nghĩa vụ tài chính cùng lúc, gồm: thuế tài nguyên, thuế thu nhập doanh nghiệp, phí bảo vệ môi trường, tiền cấp quyền khai thác, và còn cả thuế xuất khẩu với khoáng sản, kể cả khoáng sản thô và quặng tinh. Mỗi loại thuế, phí có mục tiêu riêng - điều tiết giá trị tài nguyên, bảo vệ môi trường hay phản ánh quyền được khai thác - nhưng trên thực tế, trong quản lý rất khó khăn, phức tạp và lại có những điểm chồng chéo và trùng lặp.
Ví dụ, tiền cấp quyền khai thác được tính dựa trên trữ lượng được cấp phép và quyết toán theo mỗi chu kỳ 5 năm, trong khi thuế tài nguyên lại căn cứ vào sản lượng khai thác thực tế. Hai khoản thu trên cùng 1 cơ sở tính là sản lượng và giá tài nguyên nên doanh nghiệp đang hiểu là phải "trả hai lần" cho cùng một loại tài nguyên. Phí bảo vệ môi trường cũng tính trên khối lượng khoáng sản khai thác - trong khi bản thân thuế tài nguyên đã bao hàm yếu tố môi trường.
Ngoài ra, thẩm quyền quản lý, trách nhiệm phối hợp giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Tài chính và các địa phương còn có vấn đề, khiến việc tính và nộp thuế trở nên phức tạp, tốn kém thời gian cho doanh nghiệp. Không ít trường hợp, doanh nghiệp phải làm việc với 3-4 cơ quan khác nhau chỉ để hoàn tất thủ tục kê khai và nộp tiền.
Tôi cho rằng, cần rà soát tổng thể, hướng tới nguyên tắc "một nguồn tài nguyên - một cơ chế điều tiết". Trong đó nên xem xét hợp nhất các khoản có cùng bản chất, ví dụ thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác, thành một sắc thuế thống nhất, dễ hiểu, dễ thực hiện. Đồng thời, cần công khai phương pháp tính, định kỳ rà soát mức thuế, phí để bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
Một cơ chế tài chính rõ ràng, đồng bộ không chỉ giúp doanh nghiệp dễ tuân thủ mà còn giúp Nhà nước quản lý hiệu quả hơn tài nguyên - tài sản của quốc gia.
Một số doanh nghiệp phản ánh rằng mức thuế, phí hiện nay còn cao và chưa phản ánh đúng hiệu quả đầu tư, trong khi các cơ chế khuyến khích đổi mới công nghệ, khai thác bền vững lại chưa rõ ràng. Ông đánh giá thế nào về tính công bằng và hiệu quả của chính sách thuế hiện hành?
Ông Nguyễn Văn Phụng: Đây là phản ánh có cơ sở. Tính công bằng của chính sách thuế phải được hiểu không chỉ là "ai cũng nộp", mà là "ai đóng góp hiệu quả hơn thì được ghi nhận xứng đáng hơn". Tuy nhiên, trong lĩnh vực khai khoáng, mức thuế, phí hiện nay còn khá cao và chưa phản ánh đầy đủ yếu tố đầu tư, công nghệ hay rủi ro địa chất.
Hiện tổng nghĩa vụ tài chính (bao gồm thuế tài nguyên, phí, tiền cấp quyền, thuế thu nhập doanh nghiệp) có thể tương đương 30-40% doanh thu, chiếm tới 50-60% lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp - một tỷ lệ tương đối cao so với khu vực. Trong khi đó, các ưu đãi cho hoạt động đổi mới công nghệ, khai thác tiết kiệm hoặc hoàn nguyên môi trường chưa rõ ràng.
Nếu một doanh nghiệp đầu tư hàng chục tỷ đồng vào dây chuyền khai thác hiện đại để nâng hiệu suất thu hồi, nhưng vẫn phải chịu cùng mức thuế như doanh nghiệp khai thác thủ công, thì rõ ràng chính sách chưa tạo động lực cải tiến.
Ở nhiều quốc gia, chính sách thuế không chỉ điều tiết, mà còn định hướng hành vi. Doanh nghiệp khai thác bằng công nghệ sạch, có hệ thống xử lý chất thải đạt chuẩn, hoặc có dự án hoàn nguyên môi trường được giảm thuế hoặc khấu trừ chi phí. Đây là cách tiếp cận "thuế thưởng - thuế phạt" rất hiệu quả.
Tôi cho rằng, chúng ta cần chuyển mạnh sang tư duy đó. Thuế phải trở thành công cụ điều tiết hành vi, chứ không chỉ là công cụ thu ngân sách. Khi chính sách biết "thưởng người làm đúng, phạt người làm sai", doanh nghiệp sẽ có động lực đầu tư bền vững hơn, và ngân sách cũng thu được ổn định, dài hạn hơn.
VCCI kiến nghị cần rà soát và sửa đổi Luật Thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường, cũng như biểu thuế xuất khẩu để bảo đảm đơn giản, minh bạch và có mức điều tiết hợp lý hơn. Theo ông, đâu là những điểm bất cập nhất cần được sửa đổi sớm, và hướng sửa ra sao?
Ông Nguyễn Văn Phụng: Qua thực tiễn quản lý, tôi thấy 3 nhóm bất cập cần xem lại trong hệ thống thuế, phí hiện nay.
Thứ nhất là sự chồng chéo và phức tạp của các quy định. Do có nhiều cơ quan cùng tham gia ban hành và quản lý, doanh nghiệp phải kê khai nhiều loại hồ sơ, trong khi căn cứ tính thuế lại chưa thống nhất.
Thứ hai, mức điều tiết chưa phân hóa hợp lý giữa các loại hình khai thác. Một doanh nghiệp khai thác đá xây dựng thủ công có thể chịu cùng mức thuế với doanh nghiệp đầu tư công nghệ hiện đại, tiêu tốn năng lượng ít hơn và phát thải thấp hơn.
Thứ ba, chưa tính đúng, tính đủ chi phí hoàn nguyên và bảo vệ môi trường trong hạch toán. Nhiều khoản chi thực tế doanh nghiệp bỏ ra để trồng rừng thay thế, xử lý bãi thải, phục hồi môi trường chưa được công nhận là chi phí hợp lý, khiến kết quả kinh doanh bị phản ánh sai lệch.
Vì vậy, theo tôi, cần xem lại khung thuế tài nguyên theo hướng tổng thể, minh bạch và linh hoạt. Đồng thời, cần công khai phương pháp tính, định kỳ rà soát mức thuế, phí để bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
Một cơ chế tài chính rõ ràng, đồng bộ không chỉ giúp doanh nghiệp dễ tuân thủ mà còn giúp Nhà nước quản lý hiệu quả hơn tài nguyên - tài sản của quốc gia.
Trong bối cảnh Việt Nam hướng tới khai thác khoáng sản "xanh" và phát triển bền vững, theo ông, ngành thuế nên có chính sách gì mới để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ hiện đại, nâng cao hiệu suất thu hồi tài nguyên mà vẫn bảo đảm nghĩa vụ tài chính với Nhà nước?
Ông Nguyễn Văn Phụng: Tôi cho rằng, muốn khai thác "xanh" thì chính sách thuế cũng phải "xanh". Nghĩa là, bên cạnh việc thu theo chức năng chính của mình, ngành thuế cũng cần chú trọng đến hiệu quả môi trường và công nghệ trong hoạt động khai thác.
Cụ thể, cùng với việc thiết kế mức động viên hợp lý, có tính đến sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp, nên xây dựng cơ chế ưu đãi thuế có điều kiện: doanh nghiệp nào áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến, đạt tiêu chuẩn môi trường, có chứng chỉ quốc tế (như ISO 14001), hoặc đạt tỷ lệ thu hồi tài nguyên cao hơn mức trung bình - thì được xem xét giảm thuế tài nguyên hoặc được khấu trừ chi phí đầu tư công nghệ. Ngược lại, doanh nghiệp gây ô nhiễm, không hoàn nguyên hoặc khai thác vượt phép phải chịu mức thuế, phí cao hơn.
Song song, ngành thuế cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cũng như các địa phương để xây dựng cơ sở dữ liệu số về trữ lượng, sản lượng và doanh thu khai thác. Khi có dữ liệu thống nhất, việc tính thuế sẽ khách quan, minh bạch hơn, tránh thất thoát tài nguyên và giảm chi phí kiểm tra, thanh tra.
Một điểm quan trọng khác là sự ổn định của chính sách. Khai thác khoáng sản là lĩnh vực đầu tư dài hạn, thời gian hoàn vốn thường kéo dài 7-10 năm. Nếu chính sách thay đổi quá nhanh, doanh nghiệp sẽ ngại đầu tư công nghệ mới. Vì vậy, cần công bố lộ trình điều chỉnh thuế dài hạn, để doanh nghiệp có cơ sở hoạch định chiến lược đầu tư.
Tôi tin rằng, khi thuế trở thành công cụ khuyến khích đổi mới và bảo vệ môi trường, thì mục tiêu khai thác "xanh" của Việt Nam hoàn toàn khả thi. Nhà nước vẫn đảm bảo nguồn thu bền vững, còn doanh nghiệp thì có động lực phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả và thân thiện với môi trường.
Xin trân trọng cảm ơn ông.
Vĩnh Hoàng (thực hiện)