Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Đây là thực trạng được nêu ra trong báo cáo Tăng trưởng tiền lương và năng suất lao động ở Việt Nam do Viện nghiên cứu Kinh tế và Phát triển chính sách (VEPR) và Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA) công bố ngày 13/9.
Lương tối thiểu tăng nhanh hơn năng suất lao động
Theo đánh giá của Viện nghiên cứu Kinh tế và Phát triển chính sách (VEPR), trong hơn một thập kỷ gần đây, lương tối thiểu đã tăng liên tục, với tốc độ khá nhanh tại Việt Nam, trong khi đó, năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước láng giềng. Vì vậy, mức tăng lương tối thiểu đã làm gia tăng mối lo ngại về khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Nghiên cứu của VEPR đánh giá các chính sách trong thị trường lao động tại Việt Nam hiện nay, với trọng tâm là chính sách lương tối thiểu; mối quan hệ giữa tốc độ tăng lương tối thiểu, lương bình quân và năng suất lao động; cũng như những tác động của việc điều chỉnh liên tục các mức lương tối thiểu đối với nền kinh tế.
Theo báo cáo của VEPR lương tối thiểu tăng ở mức trung bình hằng năm của Việt Nam đạt hai con số trong giai đoạn 2007-2015, vượt xa tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người và chỉ số giá tiêu dùng.
Cũng trong giai đoạn này, tốc độ tăng lương tối thiểu cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Cụ thể, tỷ lệ lương tối thiểu trên năng suất lao động tăng nhanh, từ 25% năm 2007 đạt mức 50% năm 2015. Xu hướng này không giống với các quốc gia khác như Trung Quốc, Indonesia hay Thái Lan. Khoảng cách giữa tăng trưởng lương tối thiểu và tăng trưởng năng suất lao động ở Việt Nam đang nhanh hơn so với các quốc gia khác.
Chỉ tính riêng năm 2017, chi phí tối thiểu các doanh nghiệp tại Việt Nam phải gánh chịu, được tính bằng tổng lương tối thiểu và đóng góp vào các khoản bảo hiểm (bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp) gần chạm mức chi phí tại Thái Lan, và cao hơn mức chi phí tại Indonesia.
Viện trưởng VEPR Nguyễn Đức Thành cho biết trong trường hợp những lợi ích từ các khoản đóng góp này không được nhìn nhận bởi người lao động, khoản đóng góp bảo hiểm khá lớn ở Việt Nam có thể tạo ra những “khoảng trống thuế” giữa chi phí lao động mà doanh nghiệp phải gánh chịu với khoản thu nhập thực tế của người lao động.
Về mối quan hệ giữa lương trung bình và năng suất lao động tại Việt Nam, TS Nguyễn Đức Thành cho biết trong giai đoạn 2004-2015, năng suất lao động của Việt Nam tăng đáng kể với mức tăng trung bình đạt 4,4%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng bình quân của lương (5,8%) vượt tốc độ tăng năng suất lao động.
Cần xác định rõ các tiêu chí để thiết lập mức lương tối thiểu
Các chuyên gia kinh tế nhận định rằng mức chênh lệch giữa tăng trưởng năng suất lao động với lương tối thiểu và lương trung bình, nếu tiếp tục kéo dài, sẽ từ từ phá vỡ cân bằng trên nhiều khía cạnh của nền kinh tế, đặc biệt là cản trở tích lũy vốn con người, giảm động lực của nhà đầu tư, lợi nhuận của doanh nghiệp và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Việc tăng lương tối thiểu vùng nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động, tuy nhiên, theo TS Nguyễn Tiến Dũng (VEPR) hiện vẫn có khoảng 50% lao động Việt Nam không được ký kết hợp đồng. Số lao động này chủ yếu làm việc tại các hộ kinh doanh gia đình, lao động tự do, lao động làm việc tại các khu vực kinh tế nhỏ và vừa, đương nhiên không thuộc phạm vi áp dụng của mức lương tối thiểu vùng, như vậy việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu hiện nay không đảm bảo phân phối công bằng giữa lao động của các khu vực kinh tế.
Để mức tăng lương tối thiểu vùng được thực chất, đảm bảo cả đời sống người lao động và sự phát triển của doanh nghiệp, TS Nguyễn Đức Thành cho rằng mức tăng lương tối thiểu nên được điều chỉnh dựa trên các nguyên tắc nhất định, minh bạch và dễ dự đoán hơn. Cần phải xác định rõ các tiêu chí để thiết lập và điều chỉnh mức lương tối thiểu; các điều chỉnh phải được lên kế hoạch phù hợp với mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, lạm phát và bối cảnh kinh tế.
Ngoài ra, chuyên gia cũng khuyến nghị, Hội đồng tiền lương quốc gia nên có sự tham gia của các chuyên gia, có chuyên môn sâu về kinh tế vĩ mô và kinh tế lao động, có khả năng đánh tác động của mức lương tối thiểu đối với việc làm, thu nhập trước/sau khi điều chỉnh lương tối thiểu. Điều này khá phổ biến tại một số quốc gia trong khu vực, ví dụ như Nhật Bản, Indonesia, Malaysia…