Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Bệnh nhân Đ.V.L (ở Bà Rịa-Vũng Tàu) đã từng được các bác sĩ phẫu thuật lần 1 cắt khối u sau phúc mạc có kích thước18 cm, khối lượng 3 kg tại TPHCM. Các bác sĩ xác định giải phẫu sau mổ chỉ là u mỡ lành tính.
Sau mổ 5 tháng, bệnh nhân thấy khối u tái xuất hiện, bụng to dần, không đau nhưng toàn thân mệt mỏi, ăn uống kém, sút 6 kg, đại tiện khó, khối u to rất nhanh, làm bệnh nhân khó thở và hạn chế vận động.
Tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, sau khi làm xét nghiệm chụp cắt lớp ổ bụng, các bác sĩ nhận thấy khối u sau phúc mạc kích thước lớn, đẩy thận và niệu quản trái ra trước và vào trong, dính nhiều vào cuống thận trái, đẩy động mạch chủ bụng sang phải, đẩy đại tràng trái cùng tụy ra trước và lên trên, có chứa thành phần mỡ và mô đặc nghi Liposarcoma.
Sau khi hội chẩn các bác sĩ khoa Phẫu thuật ống tiêu hóa, Viện Phẫu thuật Tiêu hóa, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã tiến hành phẫu thuật cắt toàn bộ khối u.
Theo đánh giá của PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Phẫu thuật Tiêu hóa, đây là một trong những khối u lớn nhất, nằm ở vị trí rất khó phẫu thuật mà kíp bác sĩ từng gặp. Chỉ trong mấy tháng, khối u đã tái phát và nặng đến 5,5 kg, kích thước khoảng 30 cm, chiếm gần hết khoang bụng.
"Đối với trường hợp này, thận trái như chui vào trong lòng khối u, nếu lấy bỏ thận trái sẽ thuận lợi hơn nhiều cho việc cắt bỏ khối u, tuy nhiên chúng tôi đã rất cố gắng giữ lại thận để đảm bảo chức năng sống cho bệnh nhân sau này, chính vì thế cuộc phẫu thuật khó khăn hơn rất nhiều", PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn chia sẻ.
Khối u cũng dính vào động mạch chủ bụng và động mạch mạc treo tràng trên – động mạch chính nuôi toàn bộ ruột non và 1/2 đại tràng, đòi hỏi phẫu thuật viên phải hết sức thận trọng khi thao tác.
PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn cũng nhấn mạnh, để đề phòng tái phát, kíp phẫu thuật đã kiểm tra rất kỹ ổ bụng để tìm bất cứ vị trí nào nghi ngờ có khối u khác. Ngoài ra, các bác sĩ cũng đang tiếp tục làm hóa mô miễn dịch để xác định chính xác bản chất khối u là loại tế bào gì, trên cơ sở đó sẽ xác định phương án điều trị bổ sung như hóa trị, xạ trị hoặc miễn dịch, để hạn chế khả năng tái phát, kéo dài thời gian sống của bệnh nhân.
Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ, khối u có kích thước 30x29x15 cm, nặng 5,5 kg, có vùng màu vàng, vùng màu trắng ngà hướng tới u vỏ bào thần kinh ác tính. Hiện tại, bệnh nhân đã bình phục, có thể tự vận động đi lại, dự kiến ra viện trong vài ngày tới.
U vỏ bào thần kinh ác tính là một loại khối u hiếm và ác tính xuất phát từ vỏ bào thần kinh hoặc các cấu trúc liên quan đến bào thần kinh. Nó thường xuất hiện trong các thân dây thần kinh ngoại vi, nhưng cũng có thể phát triển trong các vị trí khác trong cơ thể. Tỉ lệ gặp bệnh nhân mắc u vỏ bào thần kinh ác tính khá hiếm.
Các triệu chứng của u vỏ bào thần kinh ác tính có thể bao gồm: Sưng, đau, khó di chuyển hoặc tê liệt trong khu vực bị ảnh hưởng hoặc các triệu chứng khác phụ thuộc vào vị trí của khối u.
Điều trị u vỏ bào thần kinh ác tính thường bao gồm phẫu thuật loại bỏ khối u, kết hợp với phương pháp điều trị bổ sung như tia X, hóa trị hoặc miễn dịch. Tuy nhiên, u vỏ bào thần kinh ác tính thường khá khó điều trị và có khả năng tái phát cao. Dữ liệu về tỉ lệ tái phát và thời gian sống sau mổ có thể thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm kích thước và vị trí của khối u, phạm vi lan rộng của khối u, sự lan rộng vào các cấu trúc lân cận và khả năng loại bỏ hoàn toàn khối u bằng phẫu thuật.
Một số nghiên cứu đã báo cáo tỉ lệ tái phát u vỏ bào thần kinh ác tính từ 50% đến hơn 80% trong các trường hợp điều trị chỉ bằng phẫu thuật. Thời gian sống sau mổ cũng có thể dao động từ vài tháng đến vài năm, tùy thuộc vào các yếu tố trên và cách điều trị được áp dụng.
HM