Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Luật Thanh tra (sửa đổi) có 118 điều, quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra; hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2023.
Theo đó, điểm mới đáng chú ý là tổng cục, cục thuộc bộ được thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành.
Điều 18 quy định thanh tra tổng cục, thanh tra cục là cơ quan của tổng cục, cục thuộc bộ thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý Nhà nước mà tổng cục, cục được giao phụ trách; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật.
Thanh tra tổng cục, cục được thành lập trong 3 trường hợp, đó là: Theo quy định của luật; theo quy định của điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên; tại tổng cục, cục thuộc bộ có phạm vi đối tượng quản lý Nhà nước chuyên ngành, lĩnh vực lớn, phức tạp, quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội theo quy định của Chính phủ.
Việc thành lập thanh tra tổng cục, cục phải không làm tăng số lượng đầu mối đơn vị trực thuộc và biên chế của tổng cục, cục thuộc bộ.
“Theo các tiêu chí và quy định này thì không phải tổng cục, cục nào ở Trung ương cũng có cơ quan thanh tra chuyên ngành”, báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu trước khi Quốc hội bấm nút thông qua.
Với những nơi đã được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành nhưng không đáp ứng đủ điều kiện hoặc chưa được Chính phủ xem xét, quyết định việc thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành thì tiếp tục tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra theo quy định của Chính phủ.
Một điểm mới khác nhận được sự quan tâm của đại biểu và cử tri là giao quyền chủ động cho UBND cấp tỉnh trong việc thành lập thanh tra sở (trừ một số trường hợp đặc thù). Như vậy, không phải tất cả các sở đều thành lập cơ quan thanh tra.
Theo quy định tại Điều 26, thanh tra sở được thành lập trong 3 trường hợp: Theo quy định của luật; tại sở có phạm vi quản lý rộng và yêu cầu quản lý chuyên ngành phức tạp theo quy định của Chính phủ; tại sở do UBND cấp tỉnh quyết định căn cứ vào yêu cầu quản lý nhà nước tại địa phương và biên chế được giao.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho biết quy định này nằm đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của thanh tra sở.
Thực tế hiện nay, tại mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có từ 15 đến 19 tổ chức thanh tra sở nhưng biên chế rất ít. Nhiều tỉnh chỉ có khoảng trên dưới 50 người, cá biệt có tỉnh chỉ có 25 biên chế.
“Do biên chế mỏng, cơ quan thanh tra được thành lập dàn trải ở nhiều sở, nhu cầu về thanh tra giữa các sở không đồng đều nên một số cơ quan thanh tra sở chỉ được bố trí từ 1 đến 2 biên chế, dẫn đến hoạt động nặng về hình thức, hiệu quả thấp”, ông Hoàng Thanh Tùng báo cáo trước khi Quốc hội biểu quyết.
Luật Thanh tra (sửa đổi) được Quốc hội thông qua quy định rõ thanh tra sở là cơ quan của sở, thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong phạm vi mà sở được giao tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật.
Tại những sở không thành lập cơ quan thanh tra, giám đốc sở giao đơn vị thuộc sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Thanh tra tỉnh được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của các sở không thành lập cơ quan thanh tra.
Luật Thanh tra (sửa đổi) quy định rõ thời gian ban hành kết luận thanh tra; các trường hợp cụ thể người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm báo cáo thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trước khi ký ban hành kết luận thanh tra.
Đây cũng là điểm mới để khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, góp phần khắc phục tình trạng chậm ban hành kết luận thanh tra.
Điều 78 quy định, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được dự thảo kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra ký ban hành kết luận thanh tra và chịu trách nhiệm về kết luận, kiến nghị của mình. Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra để bảo đảm việc ban hành kết luận thanh tra đúng thời hạn theo quy định.
Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
1. Cơ quan thanh tra theo cấp hành chính bao gồm:
a) Thanh tra Chính phủ;
b) Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là thanh tra tỉnh);
c) Thanh tra quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là thanh tra huyện);
d) Cơ quan thanh tra tại đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định.
2. Cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực bao gồm:
a) Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ (sau đây gọi chung là thanh tra bộ);
b) Thanh tra tổng cục, cục thuộc bộ và tương đương (gọi chung là thanh tra tổng cục, cục);
c) Thanh tra sở.
3. Cơ quan thanh tra ở cơ quan thuộc Chính phủ.
4. Cơ quan thanh tra trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Cơ quan Cơ yếu Chính phủ.
5. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.
(Điều 9, Luật Thanh tra sửa đổi)
Lê Sơn