• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Mã số vùng trồng - nền tảng cho lâm nghiệp hiện đại và minh bạch

(Chinhphu.vn) - Việt Nam tăng tốc hoàn thiện hệ thống mã số rừng trồng để đáp ứng yêu cầu quản lý, truy xuất nguồn gốc và phát triển bền vững ngành gỗ.

06/11/2025 16:50
Mã số vùng trồng - nền tảng cho lâm nghiệp hiện đại và minh bạch- Ảnh 1.

Ông Nguyễn Văn Diện, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm - Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Minh bạch hóa quản lý rừng - yêu cầu cấp bách

Tại Hội thảo "Mã số rừng trồng gắn với thực hiện quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng" ngày 6/11, các chuyên gia, nhà quản lý và tổ chức quốc tế cùng thống nhất quan điểm: việc xây dựng hệ thống mã số rừng trồng là bước đi tất yếu để Việt Nam kiểm soát nguồn gốc gỗ hợp pháp, đáp ứng các quy định khắt khe từ thị trường quốc tế, đặc biệt là Quy định chống mất rừng (EUDR) của Liên minh châu Âu.

Ông Nguyễn Văn Diện, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ NN&MT), khẳng định mã số rừng trồng là công cụ quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa quản lý ngành lâm nghiệp.

"Mã số không chỉ giúp xác định cụ thể từng khu rừng, mà còn kết nối dữ liệu giữa chủ rừng, cơ quan quản lý và doanh nghiệp chế biến - xuất khẩu", ông Diện nói.

Theo ông, hệ thống này sẽ tạo cơ sở minh bạch cho việc cấp chứng chỉ rừng, truy xuất nguồn gốc gỗ hợp pháp, và giúp Việt Nam chủ động thích ứng với EUDR – quy định yêu cầu doanh nghiệp xuất khẩu gỗ phải chứng minh nguyên liệu không liên quan đến phá rừng hay thoái hóa đất.

Theo bà Lê Thu Hương, đại diện Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), việc Việt Nam thiết lập hệ thống mã số rừng trồng phù hợp với xu hướng toàn cầu về quản lý tài nguyên thiên nhiên có trách nhiệm.

Bà Hương dẫn ví dụ về Sáng kiến BIODEV2030 do AFD tài trợ, đang triển khai tại 16 quốc gia nhằm thúc đẩy lồng ghép yếu tố đa dạng sinh học vào quá trình phát triển kinh tế. "BIODEV2030 không chỉ là một dự án, mà là cách tiếp cận mới để phát triển kinh tế mà không đánh đổi môi trường", bà nói.

Tại Việt Nam, chương trình đã hỗ trợ đối thoại giữa cơ quan quản lý, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, đồng thời hỗ trợ kỹ thuật cho ngành lâm nghiệp trong xây dựng và vận hành hệ thống mã số rừng trồng.

"AFD mong muốn hợp tác lâu dài để những nỗ lực này không chỉ dừng ở quy định, mà trở thành công cụ thực tiễn cho phát triển xanh", bà Hương khẳng định.

Đại diện WWF Việt Nam, bà Nguyễn Bích Hằng, cho rằng mã số rừng trồng giúp Việt Nam chủ động ứng phó với EUDR và khẳng định vị thế quốc gia cung ứng gỗ hợp pháp. Bà đánh giá cao vai trò của BIODEV2030 trong việc hỗ trợ chuẩn hóa dữ liệu, hướng dẫn kỹ thuật và truyền thông đến doanh nghiệp, giúp nâng cao năng lực cho các địa phương tham gia. Khi hệ thống vận hành đồng bộ, Việt Nam có thể chứng minh rõ ràng tính hợp pháp của nguồn gỗ, từ đó mở rộng cơ hội tiếp cận các thị trường cao cấp.

Tại hội thảo, các đại biểu thảo luận bốn nhóm nội dung chính: thực trạng triển khai mã số rừng trồng, mối liên kết giữa mã số – chứng chỉ rừng – truy xuất nguồn gốc, cơ chế phối hợp giữa các bên và ứng dụng công nghệ số trong giám sát.

Theo đó, mỗi vùng rừng được gắn mã số đồng nghĩa với việc dữ liệu sản xuất được số hóa, có thể kiểm chứng và chia sẻ giữa các bên – điều kiện bắt buộc của các thị trường phát triển.

Ông Nguyễn Văn Diện cho biết Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xem xét tích hợp mã số rừng vào hệ thống giám sát quốc gia, đồng bộ với chương trình chứng chỉ rừng và truy xuất nguồn gốc gỗ. Mục tiêu là "minh bạch hóa toàn bộ chuỗi giá trị, từ trồng rừng đến chế biến và xuất khẩu".

Ngành lâm nghiệp Việt Nam hiện đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 17,3 tỷ USD/năm, với hơn 500.000 lao động trực tiếp. Khi hệ thống mã số đi vào vận hành, sẽ tạo nền tảng phát triển theo chuỗi, nâng cao năng lực cạnh tranh và giá trị gia tăng.

Mã số vùng trồng - nền tảng cho lâm nghiệp hiện đại và minh bạch- Ảnh 2.

Toàn cảnh hội thảo "Mã số rừng trồng gắn với thực hiện quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng" ngày 6/11 - Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Chuyển tư duy quản lý sang phục vụ

Hiện nay, Cục Lâm nghiệp đã phối hợp với Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam thí điểm cấp mã số rừng tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc. Kết quả ban đầu cho thấy hệ thống này giúp kiểm soát tốt hơn nguồn gốc nguyên liệu, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp xin cấp chứng chỉ rừng quốc tế. Tuy nhiên, việc triển khai còn gặp khó do thiếu cơ sở dữ liệu đồng bộ, năng lực kỹ thuật hạn chế và nhận thức chưa cao ở một số doanh nghiệp nhỏ.

"Cục sẽ tiếp tục hướng dẫn, hoàn thiện quy trình kỹ thuật và tham mưu Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành quy định cụ thể, để thống nhất cơ chế quản lý mã số rừng trồng trên toàn quốc", ông Nguyễn Văn Diện, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết.

Trong dự thảo Thông tư mới của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, mã số rừng trồng được định nghĩa là mã định danh cho từng diện tích rừng trồng, phục vụ quản lý và truy xuất nguồn gốc lâm sản.

Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm Trần Quang Bảo cho rằng đây không phải là giấy phép mới, mà là "chìa khóa kết nối dữ liệu" giúp kiểm soát hợp pháp lâm sản, đồng thời tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi giao dịch xuất khẩu.

Hai phương án cấp mã đang được thảo luận: Cơ quan quản lý nhà nước cấp dựa trên đăng ký tự nguyện của tổ chức, cá nhân hoặc trao quyền cho tổ chức độc lập cấp theo cơ chế giám sát. Tuy nhiên, theo ông Bảo, để bảo đảm thống nhất dữ liệu và tránh "nhiều thước đo", giai đoạn đầu nên để cơ quan nhà nước trực tiếp cấp. Việc này vừa đảm bảo chuẩn kỹ thuật, vừa tạo nền tảng cho xã hội hóa sau này.

Thực tế thí điểm tại 5 tỉnh phía Bắc cho thấy doanh nghiệp chế biến gỗ là nhóm tích cực nhất trong việc xin cấp mã, bởi họ cần chứng từ truy xuất để giao dịch quốc tế. Ngược lại, nhiều chủ rừng vẫn chưa thấy rõ lợi ích.

Ông Trần Lâm Đồng, Phó Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, cho biết:"Nếu mã số không gắn với quyền lợi cụ thể, người dân khó mặn mà. Cần thiết kế để mã số trở thành điều kiện giúp bán được giá cao hơn, kiểm tra nhanh hơn, hoặc tham gia chuỗi cung ứng có chuẩn truy xuất".

Bài học rút ra là phải tránh "giấy hóa" quy trình. Cấp mã điện tử sẽ giúp kết nối trực tiếp với hệ thống truy xuất lâm sản, thuận lợi cho quản lý và giao dịch.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị nhấn mạnh định hướng chuyển từ "quản lý sang phục vụ, kiến tạo phát triển". Trước mắt, giao Chi cục Kiểm lâm cấp tỉnh tổ chức thực hiện cấp mã số rừng, bảo đảm một đầu mối chịu trách nhiệm. Về lâu dài, khi dữ liệu được chuẩn hóa và hệ thống vận hành ổn định, có thể phân cấp sâu hơn xuống cấp xã hoặc hạt kiểm lâm để đưa dịch vụ đến gần người dân. "Rừng có mã số sẽ tăng giá trị bán hàng, minh bạch nguồn gốc gỗ và đáp ứng yêu cầu truy xuất của thị trường", Thứ trưởng nói.

Mã số rừng trồng – nếu được triển khai hiệu quả – sẽ không chỉ là công cụ quản lý mà còn là "giấy thông hành xanh" cho ngành gỗ Việt Nam, khẳng định thương hiệu quốc gia về gỗ hợp pháp, bền vững và có trách nhiệm trên thị trường toàn cầu.

Đỗ Hương