• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Người tìm đường đi cho dân tộc

Cách đây vừa tròn 100 năm, từ Bến cảng Nhà Rồng Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước.

25/05/2011 07:12

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vòng hoa viếng các chiến sĩ đấu tranh vì nền độc lập, tự do của nước Pháp ở Khải Hoàn Môn, Pa-ri (Pháp) tháng 6-1946. Ảnh tư liệu


Sau 30 năm bôn ba, ngày 28-1-1941, Người trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nhìn lại chặng đường 30 năm ấy, Người đã mất gần 10 năm để tìm lời giải cho bài toán khó lúc bấy giờ: Làm thế nào để giải phóng Tổ quốc và nhân dân thoát ách nô lệ của thực dân Pháp, nước được độc lập, dân được tự do hạnh phúc?


Sự kiện Nguyễn Ái Quốc gặp Luận cương của Lê-nin có thể coi là một dấu ấn, một mốc quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin” Bác viết năm 1960 nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày sinh Lê-nin, Người đã thổ lộ: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên, như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”[1].


Đúng như lời Người nói sau này: Trong Luận cương có những chữ chính trị khó hiểu, nhưng đọc đi đọc lại nhiều lần cuối cùng cũng hiểu được ý chính.


Điều tâm đắc đầu tiên khi Người đọc Luận cương của Lê-nin chính là đã tìm thấy lời giải đáp về khẩu hiệu tự do-bình đẳng-bác ái.

Qua nhiều tài liệu, chúng ta đều biết rằng “Từ độ tuổi 13, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành nghe ba chữ Pháp tự do-bình đẳng-bác ái”. Và ngay từ thuở ấy Bác mong muốn: “Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy…”[2].

Từ ngày rời Tổ quốc, Nguyễn Tất Thành đã đi qua Pháp và nhiều nước châu Phi ven biển Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Người đã từng sống ở Mỹ, ở Anh. Chứng kiến tình hình thực tế của xã hội tư bản, Người nhận xét: “Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!”, “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ”.


Đọc Luận cương của Lê-nin, Nguyễn Tất Thành càng hiểu sâu hơn “những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”. Lê-nin viết: “Chế độ dân chủ tư sản, do bản chất của nó, vốn có cái lối đặt vấn đề một cách trừu tượng hoặc hình thức về quyền bình đẳng nói chung, trong đó bao gồm cả quyền dân tộc bình đẳng. Nấp dưới quyền bình đẳng của cá nhân nói chung, chế độ dân chủ tư sản tuyên bố quyền bình đẳng hình thức hoặc quyền bình đẳng trên pháp luật giữa kẻ hữu sản và người vô sản, giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột; do đó làm cho những giai cấp bị áp bức bị lừa dối một cách ghê gớm”[3].


Người cho rằng: Đúng là một khẩu hiệu mỹ miều nhưng đằng sau đó ẩn giấu một sự lừa bịp, xã hội tư bản đâu đã là tốt đẹp.


Điều tâm đắc thứ hai Người tìm thấy từ các tác phẩm của Lê-nin chính là tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa; mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc với các nước thuộc địa. Lê-nin cho rằng, nếu không có sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân và các dân tộc thuộc địa, trước hết là của các dân tộc phương Đông thì giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến trên thế giới khó giành thắng lợi.


Tiếp thu tư tưởng này của Lê-nin về mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa, trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa”[4].


Điều tâm đắc thứ ba chính là hướng đi của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa mà Luận cương của Lê-nin đã vạch ra: Đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Lê-nin viết: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ không phải chỉ là và chủ yếu là một cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở từng nước chống lại giai cấp tư sản ở nước mình; không phải thế, đó sẽ còn là cuộc đấu tranh của tất cả các nước thuộc địa và tất cả những nước bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, của tất cả các nước phụ thuộc chống lại chủ nghĩa đế quốc quốc tế”.


Sự tiếp thu của Nguyễn Ái Quốc về các luận điểm quan trọng trên đây đã phác thảo con đường giải phóng dân tộc của đất nước ta!

Song, cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân diễn ra như thế nào vẫn còn là dấu hỏi lớn, một bài toán đòi hỏi các nhà cách mạng giải đáp. Vấn đề này, ngay các nhà kinh điển Mác-xít cũng trả lời rất thận trọng.

* *

*

Tiếp thu và quán triệt tư tưởng của Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã sớm xác định hướng đi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.


Việc định hướng cho một cuộc cách mạng là rất quan trọng. Đó là kết quả của cả quá trình nghiên cứu lý luận và quan sát thực tế từ các cuộc cách mạng Pháp, Mỹ, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ... Nhưng phương hướng ấy có trở thành hiện thực hay không đã đặt ra những vấn đề mới để Nguyễn Ái Quốc và các nhà cách mạng ở các nước thuộc địa tiếp tục giải quyết, nói cách khác phải có những tìm tòi mới bổ sung cho những vấn đề lý luận mà Ăng-ghen và Lê-nin chưa đề cập tới.


Đối với cách mạng giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi ách thực dân, Nguyễn Ái Quốc cũng phải làm tròn nhiệm vụ của một nhà tư tưởng, nhà lý luận, tức là phải “đi trước phong trào tự phát và chỉ đường cho nó” như Lê-nin đã xác định.


Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng vô sản ở chính quốc.


Tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản khi nghe một số ý kiến coi trọng cách mạng vô sản ở chính quốc hơn thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã thẳng thắn nêu ý kiến của mình: “Các đồng chí thứ lỗi về sự mạnh bạo của tôi. Nhưng tôi không thể không nói với các đồng chí rằng: Sau khi nghe những lời phát biểu của các đồng chí ở chính quốc, tôi có cảm tưởng là các đồng chí ấy muốn đánh chết rắn đằng đuôi. Tất cả các đồng chí đều biết rằng hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng các đồng chí lại khinh thường thuộc địa”[5].


Những luận điểm trên đây của Nguyễn Ái Quốc nói lên tính chủ động, tích cực của phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Luận điểm đó rõ ràng là khác với quan điểm của một số đông lúc bấy giờ cho rằng: Cách mạng ở thuộc địa chỉ được giải quyết sau khi giai cấp vô sản ở “chính quốc” giành được chính quyền.


Một vấn đề lớn trong lý luận về cách mạng giải phóng thuộc địa là vấn đề động lực cách mạng, tức là vấn đề dựa vào lực lượng nào để tiến hành cách mạng.


Về điểm này trong Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Lê-nin nhấn mạnh sự ủng hộ trực tiếp của tất cả các đảng cộng sản: “Nếu không có điều kiện đặc biệt quan trọng là sự ủng hộ trực tiếp của tất cả các đảng cộng sản thì cuộc đấu tranh của dân tộc phụ thuộc và của các thuộc địa chống áp bức, cũng như việc thừa nhận quyền phân lập của họ, chỉ là những chiêu bài dối trá như vẫn thường thấy trong các Đảng của Quốc tế 2”[6].


Nguyễn Ái Quốc lại nhấn mạnh động lực cách mạng chính là phải dựa vào sức mình để giải phóng mình.


Trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa - tổ chức của những người dân bản xứ ở tất cả các thuộc địa, do Nguyễn Ái Quốc dự thảo nêu rõ: “Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”[7].


Thực tiễn giúp chúng ta nhận rõ rằng Cách mạng Tháng Mười đã giúp đỡ các dân tộc khác thoát khỏi ách thống trị của Nga hoàng là chứng minh cho những điều Lê-nin đã nói về sự giúp đỡ của giai cấp vô sản “chính quốc” có vai trò quan trọng đối với nhân dân thuộc địa; thì Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam chứng minh luận điểm sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là đúng, Việt Nam làm cách mạng trước nước Pháp “chính quốc”, hoàn toàn dựa vào sức mình và đã thành công.


Cũng cần nói thêm rằng, Nguyễn Ái Quốc nhìn rõ tiềm năng cách mạng to lớn của nhân dân các nước thuộc địa, cụ thể là Đông Dương nhưng Người không đánh giá quá cao và chủ quan một chiều về năng lực ấy. Người đã phê phán, cảnh báo về những sai lầm trong đánh giá đó: “Nói rằng Đông Dương gồm 20 triệu người bị bóc lột hiện nay đã chín muồi cho một cuộc cách mạng là sai; nhưng nói rằng Đông Dương không muốn cách mạng và bằng lòng với chế độ bây giờ như các ông chủ của chúng ta vẫn thường nghĩ, như thế lại càng sai hơn nữa”[8].


Cách mạng giải phóng thuộc địa phải dựa vào sức mình là chính nhưng đương nhiên phải có những điều kiện khác nữa như tổ chức hạt nhân lãnh đạo cách mạng, quân đội cách mạng, các tổ chức quần chúng, thời cơ thuận lợi và chắc thắng cho cách mạng, vấn đề đoàn kết quốc tế…


Những luận điểm của Nguyễn Ái Quốc trên đây cho thấy vai trò rất to lớn trong tổ chức và chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam của Đảng ta theo tư tưởng của Người.