Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Dầu khí là nguồn lợi lớn cho các nhà sản xuất dầu châu Phi. Ngành dầu mỏ đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế Angôla, chiếm khoảng 2/3 GDP và khoảng 90% ngân khố quốc gia. Trữ lượng dầu mỏ của Angôla được dự báo là có thể khai thác trong khoảng 20 năm, với sản lượng 2 triệu thùng/ngày. Trong đó, các công ty dầu khí được khoảng 15% lợi nhuận, phần còn lại do Chính phủ nắm giữ. Ở Nigeria , 80% ngân khố quốc gia và 90% sản lượng xuất khẩu là từ dầu mỏ. Mặc dù sản lượng xuất khẩu của Cộng hòa Côngô và Gabon nhỏ hơn so với các nước khác trong khu vực, nhưng cũng chiếm 1 phần lớn GDP của 2 nước này, với các mức lần lượt là 50% và 37%, cho thấy tầm quan trọng của ngành công nghiệp này. Ở Cameron và DRC, ngành công nghiệp dầu mỏ chỉ chiếm khoảng 6% và 4% trong GDP.
Lịch sử ngành công nghiệp dầu khí ở vùng cận sa mạc Sahara bắt đầu từ năm 1908, khi nhà máy Nigerian Bitumen của Đức bắt đầu khai thác ở vùng phía Tây Nigeria . Trong những năm 50 của thế kỷ trước, dầu ở Nigeria được khai thác với sản lượng lớn. Từ đầu những năm 2000, Angôla cũng bắt đầu nổi lên là 1 nước xuất khẩu dầu lớn trên thế giới. Nigiêria và Angôla xuất khẩu hầu hết sản lượng dầu khai thác được.
Năm 2010, châu Phi chiếm 13% sản lượng dầu mỏ thế giới, trong đó vùng hạ Sahara chiếm 7,25% (EIA 2011). Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ dự báo tiềm năng tăng trưởng sản lượng dầu lớn nhất đến năm 2035 ở các nước thành viên OPEC (Nigeria và Angôla) và các nước không thuộc OPEC thuộc vùng hạ Sahara. Sản lượng ở các nước thành viên OPEC trong khu vực này có thể tăng trưởng ở mức cao nhất, từ 4,2 lên 5,3 triệu thùng/ngày. Mức tăng sản lượng tương đối ở các nước châu Phi không thuộc OPEC có thể là 1,2%, cao hơn mức tăng trưởng trung bình toàn thế giới là 0,8%. Mức tăng trưởng ở khu vực Bắc Phi được dự báo là thấp hơn. Năm 2010, 7% lượng dầu nhập khẩu vào EU, tương đương khoảng 314 triệu thùng và trị giá 65 tỷ USD, là từ khu vực cận sa mạc Sahara, trong đó, Nigeria đóng góp 1 nửa. Với trữ lượng dầu mỏ lớn thứ 7 thế giới, Nigeria được coi là nhà cung cấp tiềm năng quan trọng cho châu Âu nếu ngành công nghiệp dầu mỏ có thể được phát triển ở nước này. Những nước nhập khẩu dầu chính ở châu Âu bao gồm: Tây Ban Nha, Đức, Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Hà Lan và Italia. Đối với Angôla, châu Âu không phải là thị trường quan trọng nhất nếu so với Mỹ và Trung Quốc, nhưng vẫn là thị trường tiêu thụ lớn, với Pháp là nước nhập khẩu chính.
Hiện có khoảng 500 công ty đang triển khai dự án khai thác dầu khí ở châu Phi, bao gồm những tập đoàn liên doanh đa quốc gia, độc lập, thuộc Nhà nước và các công ty nhỏ. Tổng công ty siêu quốc gia Big Five, có lượng vốn lưu động vào khoảng 150 tỷ USD đến trên 500 tỷ USD, bao gồm ExxonMobil, BP, Shell, Total and Chevron. ENI, ConcoPhillips, và Repsol-YPF là những công ty lớn nhất trong số các công ty độc lập. Các công ty thuộc Nhà nước bao gồm: Tập đoàn dầu khí Trung Quốc, Saudi Aramco, Dầu khí Brazil, Công ty Dầu khí quốc gia Iran, và Công ty Dầu khí Malaysia. Các công ty Dầu khí quốc gia thuộc châu Phi, đặc biệt là Công ty dầu khí quốc gia Nigeria và Sonatrach của Algeria , cũng tăng cường khai thác và phát triển ngoài biên giới nước mình.
Những năm gần đây, tầm quan trọng của các Công ty Dầu mỏ châu Á đến từ Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Hàn Quốc và các nước vùng vịnh thực sự đã được chú ý. Các công ty này có khả năng cạnh tranh với các công ty phương Tây đã làm chủ thị trường dầu mỏ từ giữa những năm 40 đến những năm 70. Trung Quốc, với 3 Công ty Dầu mỏ quốc gia là Tập đoàn Dầu mỏ ngoài khơi quốc gia Trung Quốc, Tập đoàn Hóa dầu Trung Quốc và CNPC đã trở thành nước tiêu thụ dầu thô thứ 2 thế giới, xếp sau Mỹ. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, Trung Quốc tập trung vào tìm nguồn khai thác. Các hợp đồng đầu tư dầu khí của Trung Quốc thường đi kèm các thỏa thuận nâng cấp cơ sở hạ tầng, nhằm đạt được sự ủng hộ về mặt chính trị cho việc đầu tư và tiếp cận nguồn dầu mỏ.
Nguyễn Linh