Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Dự án Luật Căn cước công dân (sửa đổi) hiện được xây dựng có bố cục gồm 7 chương với 46 điều, quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu căn cước; thẻ căn cước, giấy chứng nhận căn cước; căn cước điện tử; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đã thảo luận tại tổ và hội trường về dự án Luật Căn cước; có 151 lượt ý kiến ĐBQH phát biểu (trong đó có 130 lượt ý kiến phát biểu tại tổ, 17 ý kiến phát biểu và 4 ý kiến tranh luận tại hội trường). Đa số ý kiến ĐBQH tán thành về sự cần thiết ban hành Luật; đánh giá cao việc chuẩn bị hồ sơ dự án Luật và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng và An ninh; cơ bản nhất trí với các nội dung của dự thảo Luật và góp ý nhiều vấn đề cụ thể.
Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý một số nội dung lớn của dự thảo luật, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết, về phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật đối với căn cước điện tử, một số ý kiến băn khoăn về sự cần thiết cấp và quản lý căn cước điện tử; đề nghị làm rõ cơ sở thực tiễn để kiểm chứng hiệu quả áp dụng quy định căn cước điện tử trong dự thảo Luật.
Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh cho rằng, để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng Chính phủ điện tử, giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến, thì việc bổ sung điều chỉnh đối với căn cước điện tử, danh tính điện tử, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin trong hệ thống định danh và xác thực điện tử là cần thiết.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng hạ tầng viễn thông, internet và thực tế triển khai cấp và kích hoạt tài khoản định danh điện tử thời gian qua cho thấy, việc luật hóa để nâng cao giá trị pháp lý của căn cước điện tử là phù hợp với yêu cầu thực tiễn và có tính khả thi. Vì vậy, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh đề nghị cho giữ các quy định về căn cước điện tử như dự thảo Luật Chính phủ trình.
Về giấy chứng nhận căn cước và quản lý người gốc Việt Nam (Điều 7 dự thảo Luật Chính phủ trình), có ý kiến đề nghị làm rõ và quy định cụ thể về địa vị pháp lý, tiêu chí, điều kiện để xác định và cấp giấy chứng nhận căn cước, quyền và nghĩa vụ của người gốc Việt Nam, giá trị pháp lý của giấy chứng nhận căn cước, cơ quan có thẩm quyền quản lý.
Có ý kiến đề nghị nghiên cứu rà soát quy định tại Điều này bảo đảm bao hàm hết các đối tượng gốc Việt Nam, thống nhất với pháp luật hiện hành và tính khả thi của chính sách đối với công tác quản lý Nhà nước. Có ý kiến đề nghị chuyển điều này về Chương III cho phù hợp.
Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh đã chuyển điều này về Chương III (Điều 30), đổi tên Chương III thành "Thẻ căn cước, giấy chứng nhận căn cước" và bổ sung, chỉnh lý Điều 5, chỉnh sửa toàn diện Điều 30 như dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh lý nhằm quy định cụ thể, rõ hơn về người gốc Việt Nam; điều kiện cấp giấy chứng nhận căn cước, việc cấp, cấp đổi, cấp lại giấy chứng nhận căn cước; thông tin được thu thập, cập nhật, lưu trữ và việc khai thác, sử dụng thông tin về người gốc Việt Nam; việc quản lý người gốc Việt Nam; bổ sung đầy đủ hơn về quyền và nghĩa vụ của người gốc Việt Nam.
Về tên gọi của thẻ căn cước, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới cho biết, nội dung này hiện còn 2 loại ý kiến. Cụ thể, loại ý kiến thứ nhất đồng ý với tên thẻ căn cước như dự thảo Luật Chính phủ trình và cho rằng, việc sử dụng tên gọi thẻ căn cước có ưu điểm và hạn chế. Ưu điểm là thể hiện đúng bản chất của thẻ là loại giấy tờ có chứa thông tin về căn cước của người dân; giúp phân biệt người này với người khác; xác định danh tính trong thực hiện giao dịch…; bảo đảm tương đồng với thông lệ quốc tế, tạo tiền đề cho hội nhập quốc tế, công nhận giấy tờ về căn cước giữa các nước. Ngoài ra, việc đổi tên thẻ cũng không phát sinh chi phí vì thẻ căn cước công dân hiện tại vẫn còn giá trị sử dụng đến thời điểm đổi thẻ. Hạn chế là có tâm lý cho rằng chính sách của Nhà nước ta thiếu ổn định; e ngại việc thay đổi tên thẻ làm phát sinh thủ tục đổi thẻ và phát sinh chi phí đổi thẻ; phần nào dẫn đến xáo trộn khi thể hiện thông tin về thẻ căn cước/thẻ căn cước công dân trong các giấy tờ của công dân có sử dụng thông tin thẻ;...
Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ nguyên tên thẻ căn cước công dân như Luật hiện hành và cho rằng, việc sử dụng tên thẻ căn cước công dân có ưu điểm và hạn chế sau đây: Ưu điểm là thể hiện rõ người được cấp thẻ là công dân Việt Nam; phù hợp với đối tượng được cấp thẻ là công dân Việt Nam như Chính phủ trình; khẳng định địa vị pháp lý ngay từ tên thẻ; thể hiện tính cá thể hóa của người được cấp thẻ; không tác động tâm lý đối với một bộ phận người dân. Hạn chế là chưa bảo đảm sự tương đồng về tên thẻ với thông lệ chung của thế giới, có thể dẫn đến không sử dụng được thẻ khi hội nhập quốc tế.
Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh cho rằng việc đổi tên thẻ căn cước như dự thảo Luật mà Chính phủ trình là phù hợp; không phát sinh thủ tục, không phát sinh chi ngân sách Nhà nước, chi phí của xã hội. Tuy nhiên, đây là nội dung các vị ĐBQH còn nhiều ý kiến khác nhau, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh đề nghị ĐBQH cho ý kiến để lựa chọn quyết định về tên gọi của thẻ.
Về thông tin trên thẻ căn cước, một số ý kiến đề nghị rà soát, đánh giá thêm về việc thay đổi thông tin thể hiện trên thẻ căn cước; chỉ nên thể hiện những thông tin mang tính chất ổn định, giúp nhận diện lai lịch của một con người; cân nhắc một số thông tin như "nơi cư trú", "nơi thường trú", "nơi sinh", "nơi đăng ký khai sinh", "giới tính", "ngày, tháng, năm hết hạn sử dụng" bảo đảm thống nhất với quy định của pháp luật hiện hành; cân nhắc thông tin về cơ quan cấp thẻ căn cước, hình dạng, kích thước, màu sắc, ngôn ngữ… của thẻ căn cước bảo đảm phù hợp; đề nghị không nên sử dụng QR code, chỉ nên dùng chip điện tử trên thẻ căn cước.
Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh cho rằng, việc thay đổi thông tin thể hiện trên thẻ căn cước đã được đánh giá cụ thể trong quá trình xây dựng Luật, tương thích với các quy định của pháp luật có liên quan. Dự thảo Luật bỏ vân tay trên bề mặt thẻ (được lưu trữ trong bộ phận lưu trữ) để bảo đảm tính bảo mật trong quá trình sử dụng thẻ; bỏ thông tin "quê quán", sửa đổi "số thẻ căn cước công dân" thành "số định danh cá nhân", "căn cước công dân" thành "thẻ căn cước", "nơi thường trú" thành "nơi cư trú", bổ sung "nơi đăng ký khai sinh"... để tạo thuận lợi hơn cho người dân trong quá trình sử dụng thẻ căn cước và bảo đảm tính riêng tư của người dân; các thông tin căn cước của người dân cơ bản sẽ được lưu trữ, khai thác, sử dụng thông qua chíp điện tử trên thẻ căn cước; việc tích hợp cả QR code và chíp điện tử trên thẻ căn cước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng thông tin công dân khi thực hiện các thủ tục hành chính, giao dịch dân sự.
Về người được cấp thẻ căn cước (Điều 20 dự thảo Luật Chính phủ trình), một số ý kiến đề nghị cân nhắc việc cấp căn cước cho người dưới 14 tuổi vì chưa ổn định nhân dạng và sinh trắc học; việc tham gia các hoạt động giao dịch dân sự đều cần có cha, mẹ hoặc người giám hộ; sẽ phát sinh chi phí và thủ tục hành chính không cần thiết vì không thay thế giấy khai sinh.
Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh cho biết, theo báo cáo của Chính phủ, công nghệ hiện nay có thể thu nhận vân tay của người từ đủ 5 tuổi trở lên, bảo đảm yêu cầu về đối sánh dữ liệu sinh trắc học. Tuy thẻ căn cước không thay thế giấy khai sinh nhưng có thể tích hợp thêm nhiều thông tin khác theo nhu cầu của người dân, tiết kiệm kinh phí cho Nhà nước và người dân trong việc cấp và sử dụng các loại giấy tờ này; đem lại nhiều thuận lợi, tiện ích cho người dân trong việc đi lại cũng như học tập, khám chữa bệnh và các giao dịch dân sự khác.
Về cấp, quản lý căn cước điện tử (Chương IV), Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới cho hay, có ý kiến cho rằng, dự thảo Luật quy định căn cước điện tử là tài khoản định danh điện tử là chưa phù hợp về nội hàm, đề nghị làm rõ quy định này; đề nghị cân nhắc việc quy định thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ hành chính công trên môi trường điện tử phải sử dụng căn cước điện tử vì không phù hợp với mọi đối tượng.
Có ý kiến đề nghị đánh giá thêm về tính khả thi, tính bảo mật, lộ trình cấp căn cước điện tử, đồng thời quy định cụ thể, rõ ràng hơn về nội dung này và bổ sung quy định về thủ tục cấp căn cước điện tử, ứng dụng của căn cước điện tử, hoạt động quản lý Nhà nước và thực hiện giao dịch điện tử.
Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh đã nghiên cứu, chỉnh lý khái niệm về căn cước điện tử tại khoản 15 Điều 3, chỉnh lý lại quy định tại khoản 2, bổ sung 3 khoản tại Điều 31 dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh lý nhằm quy định cụ thể hơn về thông tin trong căn cước điện tử, thẩm quyền cấp căn cước điện tử và giao Chính phủ quy định trình tự, thủ tục cấp căn cước điện tử.
Nguyễn Hoàng