Cùng dự có các Phó Thủ tướng Chính phủ: Nguyễn Hòa Bình, Trần Hồng Hà, Lê Thành Long; lãnh đạo các bộ, ngành và 200 doanh nhân tiêu biểu đại diện cho các thành phần, lĩnh vực của nền kinh tế, đại diện các hiệp hội doanh nghiệp.
Buổi gặp mặt không chỉ để biểu dương, cổ vũ, khích lệ những đóng góp của đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam mà còn nối dài chuỗi các hoạt động lắng nghe, chia sẻ, trao đổi của Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, các bộ ngành với doanh nghiệp - động lực quan trọng cho sự phát triển bền vững tại thời điểm nền kinh tế thế giới và trong nước đang chuyển mình theo những xu hướng mới.
Trong thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi, phát triển và không ngừng nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
Với tốc độ tăng của như hiện nay, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới năm 2024 sẽ tiếp tục cao hơn con số 159 nghìn của năm 2023 và là năm thứ ba liên tiếp lập kỷ lục về số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới. Nếu không tính ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 vào những năm 2020-2021, thì số doanh nghiệp thành lập mới đã luôn tăng từ năm 2015 đến nay. Như vậy, tính luỹ kế kể từ năm 2000 đến hết năm 2024, số doanh nghiệp thành lập mới sẽ vượt con số 2,1 triệu doanh nghiệp.
Phát biểu khai mạc, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính gửi tới các đại biểu lời chào trân trọng, lời thăm hỏi ân cần và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Thủ tướng nêu rõ, cuộc gặp mặt được tổ chức để cùng tri ân, vinh danh các doanh nghiệp, doanh nhân có đóng góp vào sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã đóng góp rất quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Thủ tướng cho biết vừa qua, cơn bão Yagi đã tàn phá 26 tỉnh, thành từ phía Bắc trở ra, gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản. "Chúng tôi rất xúc động khi các doanh nghiệp, doanh nhân tự giác đóng góp, chia sẻ, giúp đỡ đồng bào bão lũ rất chân tình, nhiệt thành, hiệu quả, cho thấy tình dân tộc, nghĩa đồng bào, sự đoàn kết, thống nhất của dân tộc ta luôn phát huy hiệu quả trong những lúc khó khăn, thách thức", Thủ tướng nói.
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (ngày 13/10/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh thư gửi tới giới Công Thương Việt Nam nhằm khuyến khích sự phát triển và nhấn mạnh vai trò của giới Công Thương đối với nền kinh tế quốc gia: "Hiện nay Công Thương cứu quốc đoàn đương hoạt động để làm được nhiều việc ích quốc lợi dân. Tôi rất hoan nghênh và mong đợi nhiều kết quả tốt. Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà thì giới Công Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng…"
Kế thừa và phát huy tư tưởng của Người, cách đây 20 năm, ngày 13/10 hàng năm đã được chọn là ngày Doanh nhân Việt Nam (theo quyết định số 990/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải ký ngày 20/9/2004), với ý nghĩa chính là khuyến khích và tôn vinh vai trò của những nhà doanh nhân đã cống hiến nhiều thành tựu cho Tổ quốc và cho Nhân dân.
Trong bối cảnh hiện nay của nước ta (với chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, thực chất, hiệu quả), chúng ta khẳng định, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khuyến khích phát triển, phát huy vai trò, trách nhiệm của doanh nhân Việt Nam đối với sự thịnh vượng của đất nước vẫn còn nguyên giá trị sâu sắc và tính thời sự nóng hổi, đặc biệt là trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đất nước ta.
Thủ tướng khẳng định Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn trân trọng hoan nghênh, chào đón các nhà doanh nhân Việt Nam - những người đầy tài năng, tâm huyết, có ý thức sâu sắc và đúng đắn về trách nhiệm then chốt, vai trò tiên phong của mình trong góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế của đất nước. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay, trong đó có đóng góp của các doanh nhân, doanh nghiệp.
"Cổ nhân có câu: "Phi công bất phú, phi thương bất hoạt" để nói nên tầm quan trọng, không thể thiếu của đội ngũ doanh nhân đối với sự phát triển. Không có đội ngũ doanh nhân giỏi thì dòng chảy kinh tế sẽ ngưng trệ và đất nước sẽ không thể thịnh vượng", Thủ tướng phát biểu.
Thủ tướng đánh giá, hiện nay, đội ngũ doanh nhân Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, kế thừa truyền thống yêu nước, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tinh thần cống hiến cho dân tộc; ngày càng khẳng định vai trò, đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế; một số doanh nghiệp phát triển đạt tầm khu vực và thế giới, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Gợi ý một số nội dung thảo luận, Thủ tướng đề nghị các đại biểu chia sẻ về những cảm xúc, suy nghĩ, ấn tượng, những băn khoăn, trăn trở với sự phát triển của đất nước nói chung và của các doanh nghiệp, doanh nhân nói riêng; đưa ra các góp ý để đã làm tốt rồi còn làm tốt hơn nữa, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã đóng góp rồi đóng góp nhiều hơn nữa, đặc biệt là góp ý thể chế để doanh nhân phát triển lành mạnh, công khai, minh bạch, đúng pháp luật, xây dựng đội ngũ doanh nhân đủ mạnh để cùng đất nước vươn lên phát triển, phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện mục tiêu này thì mọi chủ thể đều phải làm, nhưng doanh nghiệp, doanh nhân có vai trò nòng cốt.
Hàng năm, cứ đến ngày 13 tháng 10 - Ngày Doanh nhân Việt Nam, chúng ta lại có một cảm xúc đặc biệt. Đó là dịp để chúng ta tri ân, vinh danh các doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu, có những đóng góp lớn cho phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Trong gần 40 năm thực hiện chính sách đổi mới, với các chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đội ngũ doanh nhân Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, kế thừa truyền thống yêu nước, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tinh thần cống hiến cho dân tộc; ngày càng khẳng định vai trò, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; một số doanh nghiệp phát triển đạt tầm khu vực và thế giới, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Hiện nay, chúng ta có hơn 930 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, khoảng 14,4 nghìn hợp tác xã và hơn 5 triệu hộ kinh doanh. Riêng trong 9 tháng đầu năm đã có hơn 183 nghìn doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường. Đây là lực lượng nòng cốt tạo ra của cải, vật chất; đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế; tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo và ổn định xã hội. Lực lượng doanh nghiệp, doanh nhân hiện đóng góp khoảng 60% GDP, 85% tổng số lao động, 98% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Trong 9 tháng đầu năm, nền kinh tế đã lấy lại được đà tăng trưởng, phục hồi tương đối rõ nét trên các lĩnh vực, đạt nhiều kết quả quan trọng, được các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp đánh giá cao. Luỹ kế thu ngân sách nhà nước 9 tháng ước đạt 85,1% dự toán, tăng 17,9% so với cùng kỳ; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu 9 tháng vượt 577 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ; xuất siêu ước đạt 21,5 tỷ USD… Đáng chú ý là sản xuất công nghiệp phục hồi nhanh, trở lại là động lực quan trọng, dẫn dắt cho tăng trưởng chung của nền kinh tế. Những kết quả đáng khích lệ nêu trên có sự đóng góp rất lớn của cộng đồng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp khu vực tư nhân.
Với tinh thần kiến tạo, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã luôn đồng hành cùng doanh nghiệp, triển khai mạnh mẽ cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.
Theo khảo sát nhanh gần đây cho thấy tình hình doanh nghiệp đã lạc quan hơn rất nhiều, thể hiện niềm tin đã được củng cố, tăng cường: tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá "tích cực" về kinh tế vĩ mô trong 12 tháng tới cao gấp 5 lần so với kỳ khảo sát trước.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng: sự phát triển của đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, tồn tại. Tiềm năng và dư địa phát triển vẫn chưa được khai thác hiệu quả.
Phần lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ, sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn hạn chế; còn có tư duy kinh doanh "thời vụ", thiếu tầm nhìn chiến lược. Số doanh nghiệp quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt các chuỗi cung ứng còn ít; tính liên kết, hợp tác, khả năng tận dụng cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn yếu.
Một bộ phận doanh nhân có đạo đức, văn hoá kinh doanh, ý thức chấp hành pháp luật, trách nhiệm xã hội, tinh thần dân tộc chưa cao, còn vi phạm pháp luật.
Một số cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp chậm được triển khai; cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự đáp ứng yêu cầu.
Chúng ta đang ở thời điểm rất quan trọng khi thế giới chứng kiến nhiều thay đổi lớn, sự ra đời của các ngành công nghiệp mới, thay đổi chính sách của các nền kinh tế lớn kéo theo sự dịch chuyển các dòng vốn đầu tư, sự điều chỉnh trong cấu trúc đầu tư thương mại. Điều này vừa đặt ra các nguy cơ, thách thức nhưng đồng thời cũng mang đến cho các quốc gia thời cơ, vận hội mới.
- Bối cảnh mới đang đặt ra các yêu cầu mới cho định hướng phát triển của đất nước. Chúng ta không chỉ phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng mà phải là tăng trưởng xanh, bền vững. Không chỉ là phát triển các ngành kinh doanh truyền thống, mà còn phải dồn lực để thu hút đầu tư và tạo sự bứt phá cho các ngành công nghiệp tiên phong. Không chỉ tăng trưởng dựa vào vốn, vào khai thác tài nguyên như trước, mà phải dựa vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo. Không phải chỉ là phát huy, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống mà còn phải phát huy được các động lực tăng trưởng mới đến từ kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số.
Ở trong nước, chúng ta đang ra sức thi đua hướng tới mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Để có thể tận dụng cơ hội, bắt kịp xu hướng mới, chúng ta phải chuẩn bị một tâm thế để sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới, đó là Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam như lời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu.
(i) Đối với cơ quan quản lý nhà nước:
- Tập trung tháo gỡ khó khăn, rà soát, đơn giản hoá các thủ tục hành chính; quan tâm, đồng hành cùng doanh nghiệp một cách thực chất, theo tinh thần Thủ tướng đã chỉ đạo: "đã nói là làm, đã cam kết là phải thực hiện, đã làm, đã thực hiện phải ra sản phẩm cụ thể". Đảm bảo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công bằng trong tiếp cận nguồn lực và chính sách hỗ trợ, không phân biệt các thành phần kinh tế.
- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; tăng cường rà soát, sửa đổi ngay các quy định, điều kiện kinh doanh, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật… không phù hợp với thực tế, tham vấn chặt chẽ ý kiến cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình xây dựng, sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật.
- Khẩn trương xây dựng cơ chế, chính sách phát triển doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn nhằm phát huy vai trò tiên phong trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng, có lợi thế cạnh tranh và khả năng dẫn dắt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
- Nghiên cứu các gói chính sách với quy mô đủ lớn, phù hợp, khả thi để hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới. Cần đẩy mạnh cơ chế, chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, lấy sản xuất, chế biến chế tạo là trọng tâm trên cơ sở tận dụng cơ hội của cuộc cách mạnh lần thứ 4, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn để tái cấu trúc doanh nghiệp theo hướng bền vững, sáng tạo. Từ đó tạo nên các ngành chủ lực quốc gia, các sản phẩm được phát triển bởi con người Việt Nam, được làm bởi các doanh nghiệp Việt Nam và tại Việt Nam.
- Xây dựng và hoàn thiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, có tay nghề giỏi, kiến thức chuyên môn sâu, trình độ quốc tế và làm việc chuyên nghiệp; có cơ chế đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nhiều cấp bậc. Đồng thời, cần tiếp tục tăng cường kết nối mạng lưới nhân tài, tri thức người Việt ở trong và ngoài nước.
- Tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong phát triển doanh nghiệp; tăng cường gặp gỡ, đối thoại, tham vấn ý kiến của doanh nghiệp, ngăn ngừa, đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực, gây khó khăn, nhũng nhiễu, phiền hà đối với doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
(ii) Về phía các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp:
Cần chủ động nghiên cứu, đánh giá thách thức và thời cơ của ngành, lĩnh vực; kịp thời chia sẻ, hướng dẫn, hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp hội viên; đẩy mạnh liên kết doanh nghiệp, hỗ trợ kết nối đầu tư kinh doanh, giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, chủ động đón bắt cơ hội mới, xu thế mới.
(iii) Đối với cộng đồng doanh nghiệp
- Tiếp tục nỗ lực cùng Chính phủ thực hiện các giải pháp góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, nhất là các giải pháp mang tính đột phá, đổi mới, sáng tạo. Các doanh nghiệp lớn cần nêu gương đi đầu, tiên phong trong những việc lớn, việc khó, việc mới, giải quyết những bài toán ở tầm quốc gia để tạo lực cho phát triển kinh tế, tạo dư địa phát triển cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các lĩnh vực.
- Các doanh nhân, doanh nghiệp cần chủ động đổi mới tư duy kinh doanh, nâng cao năng lực quản trị, năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh; tăng cường đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến.
- Tiếp tục phát huy tinh thần dân tộc, đoàn kết sức mạnh để cùng tạo dựng thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế; nêu cao tinh thần hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam hướng tới giá trị, lợi ích chung từ nhiều phía; tăng cường trách nhiệm với cộng đồng, với xã hội, với quốc gia, dân tộc.
Với tất cả những nỗ lực, sự quan tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và toàn thể hệ thống chính trị, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp và doanh nhân, tôi tin tưởng rằng trong bối cảnh hiện nay doanh nhân Việt Nam sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ, hiệu quả hơn nữa để cùng nhau xây dựng đất nước tự chủ và hùng cường. Thành công của doanh nhân, doanh nghiệp cũng là thành công của đất nước.
Ông Lê Mạnh Hùng, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam):
Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), Tập đoàn kinh tế nhà nước (KTNN), bên cạnh thực hiện sứ mệnh của DN, thực hiện theo cơ chế thị trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác thì còn góp phần thực hiện 3 nhiệm vụ lớn của KTNN là: Khắc phục khuyết tật của kinh tế thị trường; bảo đảm công bằng xã hội và bảo đảm kinh tế vĩ mô.
Thực tế hiện nay, DNNN, các Tập đoàn KTNN có mặt trong các lĩnh vực trọng yếu, quốc phòng an ninh, năng lượng, dầu khí, hàng không, cảng biển…và nhiều địa bàn KTXH đặc biệt khó khăn, lợi nhuận thấp.
Hiện nay, DNNN nắm giữ nguồn lực lớn và tài sản, nhân lực, công nghệ. Thời gian qua, vượt lên khó khăn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, DNNN đóng góp lớn cho nền kinh tế, góp 28% ngân sách nhà nước, giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 1 triệu lao động trực tiếp, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện an sinh xã hội.
Petrovietnam là tập đoàn kinh tế lớn nhất trong các Tập đoàn kinh tế do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, các hoạt động của Petrovietnam có ảnh hưởng trọng yếu đối với toàn bộ chuỗi giá trị năng lượng tại Việt Nam. Hoạt động của PetroVN rất hiệu quả và là DN đóng góp lớn nhất cho phát triển KTXH.
Theo tổng hợp, vốn chủ sở hữu của Petrovietnam đến 31/12/2023 đạt trên 531,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,8% tổng vốn chủ sở hữu của toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước (1,80 triệu tỷ đồng), chiếm tỷ trọng 32,8% tổng vốn chủ sở hữu của các Tập đoàn/Tổng công ty nhà nước (1,62 triệu tỷ đồng).
Tổng doanh thu toàn Petrovietnam giai đoạn 2021- 2023 đạt trên 834 nghìn tỷ đồng/năm, tăng trưởng đạt 20,2%/năm, so với năm 2020 doanh thu năm 2023 toàn Petrovietnam tăng 66,6% (942,8/566,0 nghìn tỷ đồng), cao hơn 24,2 điểm % so với mức tăng của các doanh nghiệp nhà nước (là 42,4%, 2,30 triệu tỷ đồng/1,62 triệu tỷ đồng).
Lợi nhuận trước thuế hợp nhất Petrovietnam giai đoạn 2021-2023 đạt trên 61,4 nghìn tỷ đồng/năm, tăng trưởng đạt 60,5%/năm, cao hơn 55,4 điểm % so với mức tăng của các doanh nghiệp nhà nước (5,1%); so với năm 2021 lợi nhuận hợp nhất của Petrovietnam tăng 9,1%.
Nộp ngân sách nhà nước toàn Petrovietnam giai đoạn 2021-2023 đạt 145 nghìn tỷ đồng/năm, tăng trưởng đạt 25,2% năm, chiếm tỷ trọng 8,4%/năm tổng thu ngân sách cả nước (năm 2021 chiếm 7,1%; 2022 là 9,6% và 2023 là 8,7%).
Tổng số lao động đến 30/6/2024 là gần 54 nghìn người, trong đó trình độ trên đại học là hơn 3.868 người; trình độ trên đại học là hơn 25.664 người.
Thiếu tướng Tào Đức Thắng, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội:
Viettel từ khi khai trương mạng di động năm 2004, chỉ 2 năm sau, tức năm 2006, chúng tôi đã đầu tư ra nước ngoài. Mặc dù là lĩnh vực mới, chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng chúng tôi cũng mạnh dạn đầu tư tại 2 nước là Lào và Campuchia. Từ đó rút kinh nghiệm để đầu tư ra các nước khác tại châu Phi và Mỹ La tinh.
Đến nay sau chặng đường 18 năm đầu tư, Viettel đã trở thành nhà đầu tư viễn thông lớn trên thế giới, giá trị thương hiệu theo định giá gần 9 tỷ USD, đứng thứ 17 thế giới và giá trị thương hiệu viễn thông số 1 tại Đông Nam Á.
Việc đầu tư ra nước ngoài đã góp phần định vị Viettel trên thương trường quốc tế. Hiện nay, Viettel đã đầu tư tại 13 quốc gia với 24 dự án thuộc các lĩnh vực kinh doanh viễn thông, nghiên cứu phát triển, xây lắp, bưu chính với tổng số vốn là 1,5 tỷ USD, trong đó chiếm tỉ trọng lớn là các dự án viễn thông của Tập đoàn.
Tại các nước đầu tư, Viettel luôn hướng tới mục tiêu là doanh nghiệp tiên phong dẫn dắt thị trường, trong lĩnh vực viễn thông, Viettel có 7/10 thị trường đã vươn lên số 1, có những thị trường trong vòng 6 tháng đã vươn lên số 1 như thị trường Bungaria, có những thị trường khác, chúng tôi kiên trì sau 12 năm như Mozambique.
Bên cạnh viễn thông, Viettel cũng mở rộng, đi vào chiều sâu như là đưa nền tảng số, những lĩnh vực mới để kinh doanh như thanh toán số tại châu Phi, Mozambique, những đóng góp ở đây rất lớn trong khi đầu tư rất nhỏ.
Bên cạnh hiệu quả về kinh tế, Viettel cũng xác định đầu tư ra nước ngoài gắn chặt với nhiệm vụ chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, từ đó giúp thúc đẩy ngoại giao văn hoá, đối ngoại quốc phòng, lan toả hình ảnh đất nước, con người, những thành tựu của Việt Nam ra quốc tế. Đây cũng là cơ hội tốt để tạo ra các cán bộ chuyên môn, có kinh nghiệm, bản lĩnh, nhiệt huyết, tự tin không chỉ cho Viettel mà cho đất nước nói chung.
Về những thuận lợi, Viettel đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ cao nên chúng tôi tận dụng được lợi thế của người đi sau. Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta dồi dào, chi phí nhân công hợp lý, có khả năng thích ứng, linh hoạt, kiên trì của người Việt Nam rất lớn, đã biến khó khăn thành cơ hội.
Ngoài ra, chúng tôi cũng luôn nhận được sự ủng hộ, tháo gỡ khó khăn của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành liên quan.
Về thách thức, kinh doanh ra nước ngoài cũng có nhiều khó khăn, đặc biệt là ở những nước lớn, phát triển thực sự không phải dễ cho lĩnh vực công nghệ cao, những vùng chúng ta tìm đến là những vùng khó khăn như ở châu Phi, Nam Mỹ, hay ở Đông Nam Á. Khi xin phép đầu tư, Viettel luôn khảo sát rất kỹ thị trường trước khi ra quyết định, tuy nhiên chúng ta cũng không thể lường trước được những xung đột, diễn biến chính trị ở các quốc gia.
Thứ 2 là khác biệt về văn hoá, mỗi quốc gia có nền văn hoá riêng, thậm chí là trong một quốc gia cũng có văn hoá khác nhau. Thứ 3 là khác biệt về ngôn ngữ.
Về bài học kinh nghiệm, đầu tiên doanh nghiệp phải có khát vọng, tự tin, tự hào đủ lớn, kinh doanh ra nước ngoài, các doanh nghiệp phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, nhưng phải tự tin, kiên trì, khát vọng đủ lớn để thành công.
Thứ 2, phải khảo sát, đánh giá kỹ lưỡng tình hình chính trị, kinh tế, luật pháp tại các nước trước khi đầu tư.
Thứ 3, phải tạo dựng được mối quan hệ với Chính phủ, gắn kết với chính quyền địa phương, duy trì mối quan hệ. Sau nữa, kinh doanh phải gắn liền với trách nhiệm xã hội tại các nước chúng ta đầu tư.
Về những kiến nghị, đề xuất, chúng tôi rất phấn khởi, vui mừng khi trong một chương trình do VTV tổ chức, Thủ tướng có nhấn mạnh đến những điểm tựa Việt Nam, chúng tôi, khi kinh doanh ra nước ngoài rất cần điểm tựa đó, nhất là tại những nước chúng ta không có sứ quán, không ký hiệp định bảo hộ đầu tư. Cần có chiến lược hoặc nghị quyết về lĩnh vực này để doanh nghiệp tự tin đi ra nước ngoài
Cần nâng cao vai trò ngoại giao kinh tế hỗ trợ doanh nghiệp Việt đầu tư ra nước ngoài qua những chuyến công tác của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, hay những chuyến thăm của lãnh đạo, doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam.
Thứ ba, cần giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp đầu đàn, với những thế mạnh tại những vùng, khu vực cụ thể, cùng với các doanh nghiệp khác của Việt Nam tạo hệ sinh thái đầy đủ tại các nước đầu tư.
Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam:
Cộng đồng doanh nghiệp cảm ơn Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã nỗ lực hết mình với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong nhiệm kỳ thời gian qua, đặc biệt là công tác "chăm lo đời sống và sức khỏe của doanh nghiệp", tạo nên một khối đại đoàn kết mạnh mẽ, chung sức đồng lòng xây dựng và bảo vệ tổ quốc qua hết thử thách này đến khó khăn khác.
Năm 2024 chuẩn bị kết thúc và chúng ta bước sang năm cuối của nhiệm kỳ để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13. Ở góc nhìn của cộng đồng doanh nghiệp, chúng tôi tin tưởng 15 chỉ tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra từ đầu nhiệm kỳ sẽ đạt được, trong đó mức tăng trưởng GDP sẽ đạt khoảng 6-6,5%. Bên cạnh đó, nước ta cũng có những mục tiêu xa hơn vào năm 2030 là một quốc gia có mức thu nhập trung bình cao và tầm nhìn đến năm 2045 là một quốc gia công nghiệp phát triển, thu nhập cao.
Với mong muốn đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu này, Hiệp hội DNNVV Việt Nam xin tham gia góp ý về 6 vấn đề.
Thứ nhất, việc đẩy nhanh thực hiện các dự án đầu tư công của Nhà nước, đặc biệt là hai siêu dự án Đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông và Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam là hết sức cấp thiết để tạo nền tảng bứt phá cho các vùng, địa phương thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2026 và những năm tiếp tới.
Hiệu quả của các dự án đầu tư công được khẳng định rất rõ, chẳng hạn như việc hoàn thành giai đoạn 1 Dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông đã thực sự thay đổi căn bản vị thế của các địa phương, đem lại cơ hội thu hút đầu tư và việc làm cho doanh nghiệp, người lao động.
Trong thời gian tới, Chính phủ tiếp tục thực hiện giai đoạn 2 của Dự án đường bộ cao tốc và đồng thời nghiên cứu triển khai Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Một thách thức đặt ra là "nguồn vốn" để thực hiện các dự án, làm sao để các Dự án đúng tiến độ, hiệu quả và đặc biệt là "tiết kiệm chi phí hợp lý".
Hiệp hội DNNVV Việt Nam mạnh dạn kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, cần có một đề án cụ thể về "Thu hút nguồn vốn trong nhân dân" để phục vụ hai dự án nêu trên, có thể thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ với mức lãi suất hấp dẫn để khuyến khích người dân tham gia. Đặc thù của doanh nghiệp và người dân Việt Nam là khi Tổ quốc, đất nước cần thì sẵn sàng ủng hộ hết mình.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có đủ năng lực để tổ chức triển khai và kiểm soát các dự án lớn. Chính phủ có thể "đặt đề bài" cho các doanh nghiệp tầm cỡ trong nước, bảo lãnh cho họ trực tiếp vay vốn và đàm phán với các đối tác nước ngoài (để mua công nghệ, thuê chuyên gia...).
Một mặt sẽ tiết giảm chi phí rất lớn từ việc tham gia của cơ quan nhà nước trong tất cả các khâu, mặt khác sẽ gia tăng hiệu quả và tránh được rủi ro cho các nhà thầu.
Thứ hai, kinh tế số là xu thế tất yếu của thế giới, trong đó có một thị trường tài chính, thị trường vốn rất lớn đang được thế giới nghiên cứu và triển khai mạnh mẽ nhưng Việt Nam lại đi sau, đó là thị trường tiền số.
Mặc dù Việt Nam hiện nay chưa cho phép vận hành thị trường này nhưng rất nhiều nhà đầu tư (bao gồm cả nhà đầu tư chuyên nghiệp lẫn người dân bình thường) vẫn tham gia đông đảo ở các sàn tiền số trên thế giới. Lượng tiền lưu thông trong thị trường này lên đến hàng trăm tỷ USD và là kênh huy động vốn rất hiệu quả của nhiều dự án công nghệ.
Thứ ba, nước ta hiện có 3% là doanh nghiệp lớn, đa phần hoạt động đa lĩnh vực, đa ngành nghề. Lực lượng doanh nghiệp lớn đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế và chuỗi giá trị trong nước. Vậy nên Chính phủ cần trao đổi và giao nhiệm vụ cụ thể cũng như ban hành những chính sách hỗ trợ đặc thù cho các doanh nghiệp lớn để họ tập trung phát triển một lĩnh vực ngành nghề mũi nhọn.
Thứ tư, lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp cả nước, hằng năm đóng góp hơn 40% GDP, 40% thu NSNN và 60% lao động, tuy nhiên đối tượng đóng vai trò quan trọng nhất trong kết nối doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ là lực lượng doanh nghiệp vừa (hiện nay có khoảng 30.000 doanh nghiệp - chiếm 4% nhưng con số này không hề nhỏ - họ là các doanh nghiệp có khát vọng, tiềm năng, điều kiện để trở thành doanh nghiệp lớn và có hoạt động sản xuất - kinh doanh khá chuyên nghiệp). Để gia tăng số lượng "đàn sếu" của nền kinh tế và kéo theo lực lượng doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ đi lên, Hiệp hội kiến nghị Chính phủ trong thời gian tới nên tập trung hơn nữa các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa.
Thứ năm, cả nước có 5 triệu hộ kinh doanh (đông gấp 6 lần lực lượng doanh nghiệp), trong khi đó quy định về đối tượng này chỉ được dành một phần trong Luật Doanh nghiệp, điều này là rất thiệt thòi đối với họ. Do vậy, kiến nghị Chính phủ nghiên cứu ban hành Luật riêng cho hộ kinh doanh, trong đó để "chính thức hóa" chuyển đổi các hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, kiến nghị Chính phủ đưa ra các tiêu chí, định mức cụ thể để các hộ kinh doanh khi đạt được "phải" chuyển đổi thành doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng cần có những chính sách hỗ trợ về thuế, vốn, mặt bằng, lãi suất... để thúc đẩy các hộ kinh doanh sớm phát triển thành doanh nghiệp.
Thứ sáu, chúng tôi rất mong Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ủng hộ ý tưởng thành lập Quỹ quốc gia về thu hút và phát triển nhân tài; kêu gọi các doanh nghiệp lớn cùng đóng góp, tham gia để vận hành Quỹ nhằm phát triển nhân tài cho đất nước, nhất là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ.
Điều kiện của Quỹ là không có vốn mồi, hoạt động hoàn toàn dựa trên cơ sở huy động nguồn lực xã hội và tuân thủ quy định pháp luật về Quỹ nhằm ươm mầm và phát triển các thế hệ trẻ Việt Nam.
Bà Huỳnh Bích Ngọc, Phó Chủ tịch thường trực Tập đoàn TTC:
Sự lãnh đạo quyết đoán và tầm nhìn chiến lược của Thủ tướng cùng các cấp chính quyền, với các chính sách kịp thời và hiệu quả đã giúp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng mặc dù trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động bất thường.
Điều này đã thể hiện rõ rệt thông qua các chỉ số kinh tế đang dần lấy lại phong độ như trước đại dịch COVID-19, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững trong tương lai, hướng đến các mục tiêu lớn hơn cho các giai đoạn phát triển tiếp theo.
Buổi gặp gỡ ngày hôm nay giữa Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng to lớn, khi vai trò của doanh nghiệp tư nhân ngày càng được khẳng định trong việc cùng chung tay xây dựng nền kinh tế.
Đại diện cho Tập đoàn TTC - với hơn 45 năm hình thành và phát triển, bà Huỳnh Bích Ngọc kiến nghị một số vấn đề cụ thể:
Thứ nhất, từ đầu năm 2024, Chính phủ đã có những quyết sách kịp thời và đúng đắn khi giảm thuế giá trị gia tăng, yêu cầu các ngân hàng thương mại cổ phần điều chỉnh lãi suất cho vay, góp phần tạo điều kiện hỗ trợ cho nền kinh tế. Tuy nhiên, để thúc đẩy hơn nữa lưu thông hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế và tạo thặng dư, đóng góp hiệu quả cho ngân sách nhà nước, cần có những chính sách "kích cầu tiêu dùng".
Một số quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Philippines lựa chọn chương trình hỗ trợ tiền mặt cho người dân tiêu dùng, hoặc Singapore cung cấp phiếu mua sắm với các chương trình hỗ trợ tài chính tương tự. Đối với Việt Nam, nên chăng xem xét việc cung cấp phiếu mua sắm - voucher đến người dân, sử dụng trong thời hạn nhất định.
Những voucher này tập trung cân đối được những mặt hàng cần kích cầu và nhu cầu thực tế của người dân. Như vậy, hàng hóa, dịch vụ được lưu thông, nhà nước thu được ngân sách, hệ sinh thái logistic và các dịch vụ đi kèm được phát triển… sẽ thêm vào các chính sách giảm thuế thu nhập cá nhân, vì bản thân phiếu voucher chính là cách giảm thuế thu nhập cá nhân.
Thứ hai, Luật các tổ chức tín dụng có những điều khoản cần xem lại như việc xác định chủ thể quản lý tài sản đảm bảo là bất động sản trong phát hành trái phiếu, do ngân hàng thương mại không còn được phép thực hiện vai trò này, trong khi Luật Đất đai cho phép tổ chức kinh tế nhận thế chấp, nhưng lại chưa có hướng dẫn thi hành, dẫn tới việc huy động trái phiếu có tài sản đảm bảo là bất động sản gặp khó trong việc xác định chủ thể nhận thế chấp.
Đại diện Tập đoàn TTC kiến nghị các cơ quan chức năng sớm ban hành các hướng dẫn cụ thể để tạo điều kiện phát triển thị trường vốn, tăng cường tính minh bạch và hiệu quả.
Thứ ba, thị trường vốn nên được xây dựng thành một kênh huy động vốn quan trọng hơn, đặc biệt cần khuyến khích sự đa dạng của các sản phẩm chứng khoán như viễn thông, công nghệ, năng lượng tái tạo và bán lẻ...
TTC kiến nghị Chính phủ tạo cơ chế với các chính sách khuyến khích khối doanh nghiệp tư nhân niêm yết các loại hình hàng hóa mới trên thị trường chứng khoán để thu hút thêm nguồn vốn đầu tư nước ngoài dài hạn. Ngoài ra, để đạt được mục tiêu kinh tế xanh, tài chính xanh, cần có chính sách khuyến khích việc phát triển chỉ số ETF chuyên đầu tư vào các doanh nghiệp đạt được những tiêu chuẩn ESG quốc tế, vừa để nhà đầu tư nước ngoài có nhiều lựa chọn cơ hội đầu tư - gia tăng hấp thụ nguồn vốn ngoại cho thị trường vốn Việt Nam, vừa khuyến khích doanh nghiệp phát triển theo chuẩn ESG quốc tế hướng đến bền vững.
Thứ tư, việc xây dựng trung tâm tài chính quốc tế là rất cần thiết và đã được lãnh đạo Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Bởi Việt Nam có tiềm năng lớn về dân số và sự phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính trong nước, lợi thế về múi giờ đối với 21 trung tâm tài chính lớn nhất thế giới hiện hữu.
Việc xây dựng trung tâm tài chính quốc tế sẽ hỗ trợ thị trường vốn Việt Nam phát triển đa dạng đóng góp tỷ trọng lớn về nguồn vốn bền vững bên cạnh thị trường tiền tệ; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, nâng cao vị thế Việt Nam. Đây là những lợi thế hoàn toàn có thể xây dựng và phát triển thành một trung tâm tài chính khu vực, thu hút các nhà đầu tư lớn và đóng góp vào sự phát triển bền vững của thị trường vốn.
Đại diện TTC cũng đề nghị Chính phủ xem xét các chính sách đột phá tạo môi trường cởi mở cho các nhà đầu tư, kiến nghị xác định khu vực có đủ tiềm năng, thế mạnh, sự độc bản như môi trường trong xanh - phát triển được kinh tế xanh; cơ sở hạ tầng tốt - phát triển được kinh tế số; quỹ đất còn nhiều dư địa - quy hoạch bài bản và hiện đại... để thu hút nhiều nhà đầu tư vốn lớn đến và đầu tư. Dựa trên cơ sở đó, đề án phát triển trung tâm tài chính quốc tế mang đậm bản sắc Việt Nam, kêu gọi sự đồng lòng góp sức từ các doanh nghiệp tư nhân để hợp lực hoàn thiện hệ sinh thái tài chính.
Ông Đào Trọng Khoa, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA):
Thay mặt Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), tôi xin chân thành cảm ơn Thủ tướng, Chính phủ, Văn phòng Chính phủ, cùng các bộ, ngành đã dành sự quan tâm và hỗ trợ cho Hiệp hội và các hội viên trong thời gian qua thông qua các chính sách như giãn nộp thuế và cắt giảm thủ tục hành chính.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Thủ tướng đã tiếp đón đoàn Liên đoàn Giao nhận và Vận tải Quốc tế (FIATA) hai lần vào tháng 7/2023 và tháng 7/2024 trong khuôn khổ chuyến công tác của Liên đoàn tại Việt Nam.
Tuần trước, tại Panama, sau 5 năm kể từ Cape Town 2019, VLA đã vinh dự nhận quyền đăng cai tổ chức Đại hội Thế giới của Liên đoàn các Hiệp hội Giao nhận và Vận tải Quốc tế (FWC2005) tại Hà Nội từ ngày 6-10/10/2025. Đoàn Việt Nam với hơn 25 đại biểu sẽ là một trong những đoàn đông đảo tham dự Đại hội.
Những hoạt động của VLA tại Panama đã để lại nhiều ấn tượng, từ đó nhận được sự tin tưởng của FIATA và hơn 100 hiệp hội quốc tế. Tất cả đại biểu đều mong muốn được đến Việt Nam tham gia Đại hội trong một đất nước năng động, phát triển, đầy cơ hội kinh doanh và trải nghiệm thú vị, hứa hẹn sẽ là một kỳ Đại hội thành công nhất trong lịch sử 99 năm của Liên đoàn, với sự tham gia của hơn 1.200-1.500 đại biểu quốc tế.
Hiện tại, VLA đang trong giai đoạn chuẩn bị cuối cùng cho FWC2005 và nhận được sự hỗ trợ lớn từ Văn phòng Chính phủ, Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao, cùng các bộ, ngành, VCCI, Trung tâm Hội nghị Quốc gia và các hiệp hội khác, cũng như cộng đồng doanh nghiệp.
Chủ đề của Đại hội được chọn là "Logistics xanh và thích ứng nhanh," thể hiện xu hướng phát triển của ngành logistics toàn cầu, cũng như cam kết của Việt Nam đối với một tương lai phát triển bền vững, như Thủ tướng đã phát biểu tại COP26. Thay mặt FIATA, Hiệp hội VLA và ban tổ chức địa phương của FWC2025, tôi xin trân trọng kính mời Thủ tướng tham dự và phát biểu chỉ đạo tại phiên toàn thể, dự kiến vào ngày 8/10/2025.
Đội ngũ doanh nhân VLA luôn học tập tư tưởng của Bác Hồ với tinh thần kiên định, sáng tạo và tiên phong, luôn sẵn sàng vượt qua thử thách và thể hiện vai trò tích cực trong các hoạt động quốc tế như AFFA và FIATA. Hiệp hội đang tập trung vào hai dự án lớn: Phát triển bền vững (ESG) và Logistics cho nông nghiệp (AgroLog), thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng trong Công điện 13 về tăng cường kết nối logistics thúc đẩy tiêu thụ và xuất khẩu nông lâm thủy sản.
Ngoài ra, Hiệp hội cũng tham gia tích cực vào việc phát triển Việt Nam thành cửa ngõ và trung tâm logistics của khu vực và quốc tế, bao gồm tư vấn chính sách, đầu tư, và tổ chức vận hành các khu thương mại tự do.
Bà Nguyễn Thị Phương, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Dịch vụ Thương mại Tổng hợp WinCommerce - Thành viên Tập đoàn Masan:
Với nền kinh tế và chính trị ổn định, quy mô dân số hơn 100 triệu người, cơ cấu dân số vàng cùng với sự đổi mới, số hóa, công nghệ hóa mạnh mẽ, Việt Nam đang sở hữu tiềm năng rất lớn để phát triển ngành bán lẻ.
Theo đó, thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng khi tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 8 tháng, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Hiện thị trường bán lẻ của Việt Nam đạt 180 tỷ USD.
Là doanh nghiệp sở hữu chuỗi bán lẻ có mạng lưới lớn nhất Việt Nam về quy mô với gần 4.000 cửa hàng tiện lợi và siêu thị mang thương hiệu WinMart và WinMart+ tại 62 tỉnh/thành phố trên khắp cả nước, chúng tôi thấy rằng các chính sách, chủ trương và hành động của Chính phủ đã và đang tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ và quan trọng cho ngành bán lẻ nói riêng và nền kinh tế nói chung, trong đó phải kể tới những hành động hỗ trợ mang tính ảnh hưởng lớn như:
Sự chỉ đạo kịp thời, hỗ trợ nguồn lực của Chính phủ, đặc biệt là người đứng đầu Chính phủ nhằm tập trung đầu tư cao cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược trên khắp đất nước, đặc biệt là việc hoàn thiện hạ tầng giao thông với hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại nhằm thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
Với sự hỗ trợ từ hạ tầng giao thông hiện đại, đặc biệt là mạng lưới đường cao tốc sớm hoàn thiện và đi vào hoạt động, doanh nghiệp có thể tối ưu hóa quy trình vận chuyển, giảm chi phí logistics và nâng cao tính cạnh tranh. Chuỗi cung ứng hiệu quả này không chỉ bảo đảm nguồn cung thực phẩm ổn định mà còn giúp giảm bớt gánh nặng chi phí vận chuyển lên hàng hóa, giúp mang sản phẩm chất lượng cao và chi phí hợp lý đến tay người tiêu dùng.
Sự tập trung chỉ đạo của Chính phủ đối với vấn đề phát triển hạ tầng công nghệ, chuyển giao công nghệ tiên tiến và ưu tiên cho đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; thiết kế nhiều giải pháp hỗ trợ phát triển công nghệ và các ưu đãi cho doanh nghiệp phát triển và ứng dụng công nghệ cao đã giúp thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, thanh toán điện tử, thương mại điện tử và phát triển các hệ sinh thái tài chính, làm thay đổi hành vi người tiêu dùng theo chiều hướng tích cực và tạo ra thay đổi chung đối với cục diện của ngành bán lẻ, tạo ra nhiều thách thức nhưng cũng kèm theo nhiều cơ hội lớn cho ngành bán lẻ.
Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách kích cầu kinh tế trong giai đoạn hậu COVID-19 như chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, giảm thuế phí, đặc biệt là chính sách giảm thuế VAT cho ngành hàng dịch vụ tiêu dùng đã mang tới sự hỗ trợ rất lớn cho doanh nghiệp trên khắp cả nước.
Các chủ trương, đường lối sáng suốt của Đảng, Nhà nước và các Nghị quyết, chính sách phát triển kinh tế xã hội đúng đắn và kịp thời này của Chính phủ đã tạo ra đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thị trường trong năm 2024. Cụ thể: tổng mức bán lẻ dịch vụ của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm đã đạt mức tăng trưởng 8,5%. Đây là điểm sáng trong tăng trưởng chung của cả nền kinh tế và góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành bán lẻ tại thị trường Việt Nam.
Song song với cơ hội phát triển, thị trường bán lẻ Việt Nam cũng gặp phải một số thách thức đáng kể. Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đang phải đối mặt với các thách thức, áp lực lớn về thị phần trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và sự gia tăng cạnh tranh từ các chuỗi bán lẻ FDI và mô hình thương mại điện tử xuyên biên giới với ưu thế về giá thành rẻ, chuyển phát nhanh, hệ thống kho bãi, logistic... Những điều này đặt ra bài toán cho các doanh nghiệp bán lẻ nói chung và Tập Đoàn Masan - WinCommerce nói riêng về việc triển khai các kế hoạch hành động mang tính chiến lược, tầm nhìn dài hạn, không ngừng đổi mới, sáng tạo để đón đầu nhu cầu của người tiêu dùng và nắm bắt xu hướng ngành để tận dụng lợi thế, tạo ra giá trị cạnh tranh.
Mặc dù thị trường bán lẻ Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển do quy mô dân số lớn (hơn 93,7 triệu người), cơ cấu dân số trẻ (60% dân số ở độ tuổi 18-50); dự báo chi tiêu hộ gia đình tăng trưởng tốt, tuy nhiên, tỷ lệ bán lẻ hiện đại thấp hơn nhiều nước trong khu vực.
Trước thực trạng nêu trên, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành Quyết định số 1163/QĐ-TTG nhằm đặt ra 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp theo từng giai đoạn để thúc đẩy sự phát triển ngành bán lẻ, đến năm 2030 là tỷ trọng tổng mức bán lẻ hàng hóa của các khu vực kinh tế trong nước đạt khoảng 85%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tại cơ sở bán lẻ hiện đại đạt 42% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nền kinh tế.
Về phía doanh nghiệp, chúng tôi rất mong các bộ, ban, ngành liên quan sớm hướng dẫn tổ chức triển khai cụ thể và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia vào các giải pháp chiến lược để đạt được mục tiêu chung: Phát triển thương mại hiện đại – tăng trưởng bền vững – tạo tiền đề vững chắc tham gia hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và thế giới.
Ông Nguyễn Văn Đệ, Chủ tịch Hiệp hội Bệnh viện tư nhân Việt Nam:
Trong hơn 20 năm qua, thực hiện chủ trương, chính sách xã hội hóa của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự hỗ trợ các ban, bộ, ngành trung ương, nhất là Bộ Y tế, lĩnh vực y tế tư nhân có tốc độ phát triển nhanh chóng, góp phần giảm gánh nặng ngân sách Nhà nước, cùng ngành y tế nỗ lực thực hiện đồng bộ các giải pháp để giảm quá tải, nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh (KCB), tạo điều kiện cho người dân được hưởng quyền lợi khi đi KCB.
Tính đến 30/9/2024, cả nước đã có 372 bệnh viện tư nhân trong tổng số có 1.527 bệnh viện được cấp giấy phép hoạt động, chiếm 23,84% so với bệnh viện công lập.
Nhiều bệnh viện đã được đầu tư nâng cấp, mở rộng cơ sở hạ tầng, tăng quy mô giường bệnh, áp dụng nhiều kỹ thuật cao, công nghệ mới trong điều trị.
Nhiều kỹ thuật cao trước đây chỉ làm được ở các bệnh viện nước ngoài, bệnh viện tuyến cuối hay bệnh viện công lập thì nay đã được thực hiện thường quy ở nhiều bệnh viện tư nhân, tạo thuận lợi cho người dân được tiếp cận dịch vụ kỹ thuật cao ngay tại địa phương.
Bên cạnh đó, y tế tư nhân cũng đã tham gia, thực hiện tốt công tác y tế dự phòng và chăm lo chính sách an sinh xã hội.
Từ quan điểm, chủ trương của Đảng về xã hội hóa lĩnh vực y tế, đặc biệt kể từ khi có Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa XII, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo thuận lợi để thu hút đầu tư trong lĩnh vực y tế. Tuy nhiên, hiện tại quy định pháp luật về đầu tư y tế tư nhân vẫn còn chồng chéo, không nhất quán trong thực hiện chính sách thu hút đầu tư, chính sách sử dụng đất đai.
Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành TƯ Đảng đặt ra mục tiêu đn năm 2025, tỉ lệ giường bệnh tư nhân đạt 10%, đến năm 2030, tỉ lệ giường bệnh tư nhân đạt 15%. Tuy nhiên, hiện tại y tế tư nhân mới đạt khoảng 8%.
Do vậy, để đạt mục tiêu Nghị quyết 20-NQ/TW đặt ra, đề nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các bộ, ban, ngành TƯ và địa phương tiếp tục rà soát, hoàn thiện ban hành các chính sách khuyến khích xã hội hóa lĩnh vực y tế mang tính đồng bộ, trong đó đối với các dự án đầu tư bệnh viện tư nhân thống nhất chỉ nên áp dụng thực hiện theo Nghị định 69/2008/NĐ-CP, Nghị định số 59/2014/NĐ-CP, thuộc đối tượng được Nhà nước thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, giao đất, cho thuê không thu tiền sử dụng đất trong suốt thời gian thực hiện dự án; không phải thực hiện trình tự đấu giá quyền sử dụng đất, không đấu thầu dự án có sử dụng đất, đảm bảo công bằng như dự án bệnh viện công lập. Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, giao trách nhiệm cho UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ động lựa chọn, chỉ định nhà đầu tư có đủ năng lực, uy tín, trách nhiệm để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ sở y tế trên địa bàn, góp phần giảm gánh nặng ngân sách nhà nước,nâng số lượng bệnh viện và giường bệnh trong cả nước, tạo môi trường bình đẳng, không phân biệt trong đầu tư xây dựng cơ sở y tế công lập và tư nhân.
Ông Nguyễn Huy Long, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Lào Cai:
Tại hội nghị này, Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Lào Cai xin kiến nghị với Chính phủ và Thủ tướng hai vấn đề:
Thứ nhất, chúng tôi mong muốn Đảng, Chính phủ và Nhà nước quan tâm hơn nữa đến cộng đồng doanh nghiệp tỉnh Lào Cai. Đó là việc miễn, hoãn, giảm thuế cho các doanh nghiệp gặp khó khăn khi bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 vừa qua.
Đặc biệt trong Luật Đất đai sửa đổi, hiện nay thuế đất trong sản xuất kinh doanh đang gặp nhiều bất cập. Đó là giá đất thương mại dịch vụ đang áp dụng ở phần đất ở, đất thương mại trong đô thị. Vì thế, giá đất thương mại dịch vụ đang ở mức cao so với mặt bằng chung. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, 6 ngày nữa là tròn 1 năm thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới. Vì thế chúng tôi đề nghị đẩy mạnh việc tuyên truyền nghị quyết này để từ đó làm động lực cho các doanh nghiệp phát triển hơn nữa, nhất là trong việc thúc đẩy phát triển Đảng trong các doanh nghiệp tư nhân.
Ông Vũ Thế Bình, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam:
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm đến ngành du lịch, đã ban hành một loạt các chính sách thúc đẩy du lịch phục hồi và phát triển sau đại dịch COVID-19, trong đó phương châm phát triển du lịch Việt Nam đã được Chính phủ nêu rõ trong Nghị quyết số 82/NQ-CP của Chính phủ là sản phẩm đặc sắc, dịch vụ chuyên nghiệp, thủ tục thuận lợi, đơn giản, cạnh tranh, môi trường vệ sinh sạch đẹp, điểm đến an toàn, văn minh, thân thiện.
Với những chính sách cụ thể như vậy, doanh nghiệp du lịch sẽ có điều kiện phát triển, đặc biệt là chính sách mới về visa đã góp phần tăng trưởng khách du lịch quốc tế.
Năm 2024, toàn ngành du lịch quyết tâm phục hồi toàn diện, phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu của năm 2019, năm tăng trưởng kỷ lục trước đây của du lịch Việt Nam. Thực hiện mục tiêu này, 8 tháng đầu năm 2024, Việt Nam đã đón 11,4 triệu khách du lịch quốc tế, tăng 45,8% so với cùng kỳ năm 2023. Đây cũng là tỉ lệ tăng trưởng cao nhất trong khu vực Đông Nam Á.
Bên cạnh những kết quả cao về thu hút khách quốc tế, thu hút khách du lịch nội địa cũng tăng trưởng rất nhanh, 8 tháng đầu năm đã đạt 90 triệu lượt khách du lịch, vượt qua cả năm 2019.
Về thu nhập trong ngành du lịch, 8 tháng đầu năm 2024, đã được 586.000 tỷ đồng, tăng 21% trong 8 tháng đầu năm 2019. Tuy rằng tình hình thế giới có nhiều yếu tố không ổn định, thiệt hại do cơn bão số 3 vừa qua, ảnh hưởng trực tiếp đến ngành du lịch, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phấn đấu vượt qua các chỉ tiêu đã cam kết.
Để thực hiện mục tiêu này, chúng tôi cũng đã đưa ra hàng loạt các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu sau dịch COVID-19.
Chúng tôi kiến nghị những vấn đề sau:
Thứ nhất, là xây dựng hạ tầng du lịch, giao thông vận tải là yếu tố rất quan trọng với ngành du lịch, việc kết nối các điểm du lịch với nhau giữa các địa phương của Việt Nam và của Việt Nam với thế giới luôn rất quan trọng.
Thứ hai, trong vận tải, chúng ta cũng nên tăng cường vận chuyển đường sông và đường biển để phục vụ phát triển du lịch.
Về đầu tư các điểm du lịch, đề nghị các địa phương tập trung vào những điểm du lịch lớn, trọng điểm, hấp dẫn du khách, để xây dựng thành điểm nhấn cho hoạt động du lịch của địa phương, tránh dàn trải.
Thứ ba là đề nghị Chính phủ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực du lịch. Sau đại dịch COVID-19, nhân lực ngành du lịch thiếu trầm trọng, hiện ngành chỉ đạt 60-70% lực lượng lao động so với trước kia. Để phát triển lực lượng này, bên cạnh sự cố gắng từ phía doanh nghiệp, về lâu dài, Nhà nước vẫn cần hỗ trợ trực tiếp, giao cho doanh nghiệp để họ trực tiếp làm và có sự giám sát của các cơ quan liên quan. Nếu ngân sách phục vụ cho đào tạo nguồn nhân lực đến được với doanh nghiệp thì sẽ hỗ trợ hiệu quả và nhanh nhất.
Về xúc tiến du lịch, hiện tốc độ tăng trưởng khách du lịch của chúng ta còn chậm so với nhu cầu do công tác xúc tiến còn yếu, Nhà nước ngoài việc lo xúc tiến ở các điểm đến quốc gia, hình ảnh của toàn quốc, điểm đến của Việt Nam, cũng cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp du lịch. Hỗ trợ doanh nghiệp cũng chính là hỗ trợ cho việc xúc tiến chung của các địa phương. Nếu Nhà nước có quỹ xúc tiến du lịch, hỗ trợ thẳng cho doanh nghiệp thì việc xúc tiến sẽ mạnh mẽ hơn, thu hút nhiều khách hơn.
Cuối cùng, Hiệp hội cũng đang đẩy mạnh chương trình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh để phát triển du lịch bền vững, trên cơ sở kết quả của chương trình giảm thải rác thải nhựa trong lĩnh vực du lịch.
Hiệp hội cũng đang triển khai chương trình phát triển du lịch xanh, phấn đấu năm 2024, sẽ công bố danh sách du lịch đầu tiên đạt tiêu chuẩn doanh nghiệp du lịch xanh, từ đó thu hút các doanh nghiệp cả nước tham gia vào chương trình. Doanh nghiệp du lịch xanh sẽ hoạt động trên cơ sở tuân thủ chặt chẽ các tiêu chí bảo vệ môi trường, giữ gìn môi trường xanh, sạch, đẹp, góp phần đưa du lịch trở thành ngành kinh tế xanh trong thời gian sớm nhất.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM:
Chúng tôi rất ấn tượng với Ngày doanh nhân Việt Nam, ấn tượng lớn nhất là Chính phủ kiến tạo môi trường kinh doanh; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn đồng hành cùng doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Trong thời gian vừa qua, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đã dành rất nhiều thời gian để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Chúng tôi rất ấn tượng với Nghị quyết 33 năm 2023 của Chính phủ có nội dung: "tất cả các chủ thể chung tay tháo gỡ khó khăn để thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững".
Thủ tướng Chính phủ đã truyền cảm hứng, truyền năng lượng cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ nỗ lực để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Đảng và Chính phủ đã đặt ra.
Hiện nay, trong các ấn tượng của chúng tôi cũng có Nghị định 08 của Chính phủ về thị trường trái phiếu doanh nghiệp, theo đó doanh nghiệp và thị trường bất động sản đã vượt qua được giai đoạn khó khăn nhất.
Cũng nhờ Nghị định 115 của Chính phủ mới được ban hành, trong đó đã sửa và tháo gỡ được khó khăn, vướng mắc và chấp thuận trong đầu tư. Vì vậy, chúng tôi rất ấn tượng trong việc đột phá về thể chế của Chính phủ, thể hiện rất rõ trong suốt thời gian qua.
Chưa bao giờ Chính phủ dành thời gian hàng tháng để họp chuyên đề về pháp luật, dưới sự chủ trì Thủ tướng Chính phủ.
Làm sao để đội ngũ doanh nhân vững mạnh và phát triển, thứ nhất làm sao để chúng tôi yên tâm, tự tin thì chúng tôi nhận thấy các chỉ đạo của cơ quan quản lý, đó là không hình sự hoá các quan hệ kinh tế dân sự. Doanh nghiệp làm ăn với tinh thần tuân thủ pháp luật cao nhất nhưng không thể tránh những sai sót. Tuy nhiên, chúng tôi rất mong không hình sự hoá các quan hệ kinh tế dân sự.
Chúng tôi cũng rất hoan nghênh Chính phủ đã giao các bộ, ngành thực hiện xây dựng 3 dự thảo Luật.
Chúng tôi mong tất cả các cơ quan quản lý phối hợp để tháo gỡ hơn 500 dự án để tăng cung, giảm giá nhà, đồng thời thực hiện được mục tiêu 1 triệu căn nhà ở xã hội mà Chính phủ đã phát động.
Đối với lĩnh vực bất động sản, chúng tôi phải làm sao có nhiều nhà ở thương mại mà vừa túi tiền người dân, giảm giá nhà, phải tham gia để phát triển được 1 triệu căn nhà ở xã hội và mong Thủ tướng quan tâm đến vấn đề 500.000 chủ nhà trọ trên phạm vi cả nước đang giải quyết chỗ ở cho hàng triệu công nhân và người có thu nhập thấp đô thị nhưng họ chưa được hưởng chính sách gì.
Bà Nguyễn Thị Hồng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đặc biệt ấn tượng về những đóng góp của doanh nghiệp Việt Nam vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thứ nhất, NHNN luôn nhận thức được tầm quan trọng của môi trường kinh doanh đối với doanh nghiệp. Vì thế, suốt những năm qua, NHNN luôn kiên định và vượt qua mọi khó khăn để góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối.
Bên cạnh đó, NHNN cũng thực hiện và chú trọng cải cách hành chính, thuộc nhóm đứng đầu trong xếp hạng chỉ số Par Index, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, ngành ngân hàng luôn xác định doanh nghiệp là người bạn đồng hành bởi vì doanh nghiệp vừa là người gửi tiền, vừa là người đi vay trong hệ thống ngân hàng. Các giải pháp chính sách của hoạt động ngân hàng đều hướng đến doanh nghiệp và người dân là trung tâm theo tinh thần chỉ đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Mỗi khi nền kinh tế khó khăn, người dân và doanh nghiệp gặp khó, hệ thống ngân hàng đều quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp hỗ trợ, đặc biệt như trong đại dịch COVID-19 hay trước nhiều biến động thời gian qua, như: Cơ cấu thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi, phí đối với doanh nghiệp...
Trong tổ chức tín dụng, các ngân hàng cũng chính là doanh nghiệp nhưng họ cũng hết sức chia sẻ và nhân văn, dành nguồn lực tài chính, bố trí khoảng 60 nghìn tỷ đồng để giảm lãi và phí cho doanh nghiệp, dù thực tế các tổ chức tín dụng không được chính sách hỗ trợ tài chính nào.
Thứ ba, doanh nghiệp có khát vọng cống hiến cho đất nước, các tổ chức tín dụng cũng vậy. Tuy nhiên, ngoài mục tiêu hoạt động thông thường như doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng là trung gian tài chính, huy động tiền để cho vay nên vẫn phải thực hiện các nguyên tắc, kỷ luật tài chính, bảo đảm an toàn cho mỗi tổ chức tài chính, theo đó cả hệ thống ngân hàng an toàn.
Chúng ta khoanh vùng an toàn của các tổ chức tín dụng để giữ môi trường kinh doanh ổn định cho doanh nghiệp và người dân.
Với vai trò là cơ quan quản lý tiền tệ và các tổ chức tín dụng, NHNN muốn giảm lãi suất thấp, cung ứng đầy đủ tín dụng nhưng sứ mệnh của NHNN phải góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, suy cho cùng cũng vì môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. NHNN mong doanh nghiệp chia sẻ từ góc độ của các tổ chức tín dụng và sứ mệnh của NHNN, đại cuộc của nền kinh tế.
Thứ tư, NHNN cho rằng cần có một đánh giá tổng thể về thực trạng doanh nghiệp Việt Nam và các giải pháp đột phá để phát triển doanh nghiệp "sếu đầu đàn" và các doanh nghiệp vệ tinh.
Việt Nam có hơn 930 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chúng ta có 01 luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, 05 Nghị định nhưng thực tế thực hiện chưa như kỳ vọng. Cần đánh giá sát thực tế để đưa ra giải pháp. Đặc biệt như ý kiến của Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa cho biết là cần có nguồn lực tài chính, ví dụ như bảo lãnh cho doanh nghiệp, góp phần giải quyết vấn đề về vốn.
Thứ năm, đối với vấn đề lãi suất 0%, trước đây, chúng ta có tình trạng đô la hóa cao, thời điểm năm 2007 - 2008, nền kinh tế có thặng dư ngoại tệ nhưng mỗi khu vực đều găm giữ ngoại tệ không bán. NHNN phải bán ngoại tệ, làm cho thị trưởng tỷ giá và ngoại hối biến động mạnh, tác động đến tâm lý của nhà đầu tư nước ngoài cũng như môi trường kinh doanh. Chính vì thế, từ năm 2016, NHNN đã thực hiện đồng bộ các giải pháp để triệt tiêu tâm lý găm giữ ngoại tệ, trong đó có giải pháp lãi suất USD 0%. Chính sách đó đã góp phần ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối, là một điểm sáng để nước ta nâng chỉ số tín nhiệm.
Số lượng ngân hàng của Việt Nam khá nhiều, trên 90% dịch vụ của ngân hàng đã được cung cấp qua kênh số. Hiện nay không có cản trở gì đối với người dân và doanh nghiệp đối với các dịch vụ này.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên:
Tôi đồng tình cao với sự đánh giá về vai trò, vị trí, tầm quan trọng cũng như những đóng góp to lớn của doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời cũng chia sẻ những khó khăn, vướng mắc, hạn chế mà doanh nghiệp, doanh nhân nước ta đang gặp phải.
Để tiếp tục khai thác, phát huy tiềm năng to lớn của doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam trong kỷ nguyên mới của đất nước, ở góc độ ngành Công Thương, chúng tôi xin kiến nghị một số nhiệm vụ, giải pháp như sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị, xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, làm sao để xã hội có cái nhìn thân thiện hơn, ủng hộ và đối xử công bằng hơn với doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ so với doanh nghiệp FDI.
Nhà nước tin tưởng, hỗ trợ thiết thực hơn để doanh nghiệp có thể phát triển, bao dung hơn, độ lượng hơn khi vô tình bị vấp ngã. Đồng thời, tuyên truyền đội ngũ doanh nhân nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về vai trò, sứ mệnh của mình, kế thừa, phát huy truyền thống các thế hệ doanh nhân dân tộc, thực hiện tốt chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tăng cường hội nhập quốc tế, gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, khơi dậy khát vọng xây dựng doanh nghiệp dân tộc xứng tầm, có vai trò đầu tàu dẫn dắt trong phát triển kinh tế, nhất là những ngành trọng điểm.
Thứ hai, chú trọng sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến phát triển doanh nghiệp, trong đó, tập trung sửa đổi, bổ sung những cơ chế, chính sách còn chồng chéo, bất cập, nhất là những văn bản ở tầm luật, nghị định trong luật doanh nghiệp, đầu tư, đầu tư công, ngân sách nhà nước, chứng khoán, quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, quản lý thuế, năng lượng và khoáng sản để tháo gỡ kịp thời những rào cản, vướng mắc, điểm nghẽn, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nhất là trong việc tham gia triển khai các dự án đầu tư quy mô lớn, công nghệ cao, góp phần khơi thông và huy động mọi nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế đất nước.
Đặc biệt, cần xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù đủ mạnh, trong đó tập trung vào các chính sách hỗ trợ các yếu tố đầu vào của sản xuất như vốn, đất đai, nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu phát triển công nghệ, các yếu tố đầu ra như thị trường và thương hiệu để hỗ trợ hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh, có sức cạnh tranh cao, nhằm phát huy vai trò tiên phong, đi đầu trong đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và tích cực tham gia đầu tư các dự án lớn trong các ngành quan trọng, có lợi thế cạnh tranh, nhất là ngành công nghiệp mới như sản xuất năng lượng sạch, sản xuất chip, bán dẫn, vi mạch, hydrogen; trong lĩnh vực thương mại như thương mại điện tử và logistics, tạo động lực bứt phá vững chắc và lan tỏa, hỗ trợ tái cơ cấu và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời có cơ chế, chính sách thông thoáng, thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, nhất là vào các nước phát triển về công nghệ gốc và các nước giàu về tài nguyên khoáng sản nhằm tham gia sâu vào thị trường công nghệ; bảo đảm chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, đồng thời có điều kiện để tiếp cận công nghệ mới, công nghệ lõi và kinh nghiệm quản trị tiên tiến để nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia càng sâu và hiệu quả vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
Thứ ba, đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Tiếp tục làm mới, thúc đẩy các động lực tăng trưởng truyền thống từ cả phía cung bao gồm sản xuất nông, lâm, thủy sản, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ du lịch và phát triển doanh nghiệp và phía cầu; hỗ trợ, thúc đẩy kích cầu tiêu dùng và hỗ trợ xuất khẩu. Đồng thời, chú trọng khai thác có hiệu quả các động lực tăng trưởng mới như đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn…
Thứ tư, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải cách công vụ của các cơ quan nhà nước nhằm đạt 3 giảm là giảm thời gian, giảm chi phí và giảm thủ tục giấy tờ. Rà soát, đơn giản hóa thủ tục, điều kiện kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ, hỗ trợ doanh nghiệp. Xây dựng cơ chế pháp lý để bảo vệ, khuyến khích doanh nghiệp phát triển ở tất cả các ngành, các lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Xây dựng và áp dụng chế tài phù hợp cho doanh nghiệp khắc phục những sai phạm về kinh tế… Đồng thời tôn vinh, khen thưởng các doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu chấp hành tốt các quy định của Đảng, Nhà nước.
Thứ năm, đối với các doanh nghiệp, doanh nhân, cùng với việc nỗ lực trong sản xuất, kinh doanh, cần tích cực nghiên cứu, góp ý, tham mưu chính sách với các bộ, ngành, với Chính phủ để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, triển khai các dự án lớn hiện có, đồng thời khuyến khích đầu tư các dự án mới phù hợp với định hướng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Không ngừng áp dụng công nghệ mới, cải tiến mô hình quản trị, quán triệt, nâng cao ý thức và chất lượng nguồn nhân lực, tạo xung lực, khí thế mới trong sản xuất, kinh doanh, khắc phục tình trạng e ngại, né tránh. Đầu tư trọng tâm cho nghiên cứu, phát triển để bắt kịp xu thế công nghệ mới trong lĩnh vực năng lượng xanh, năng lượng sạch, năng lượng mới trong đó có hydrogen và điện hạt nhân.
Thứ sáu, phát huy vai trò của VCCI, Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, các hiệp hội ngành hàng, các tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp, doanh nhân; là cầu nối vững chắc để doanh nghiệp, doanh nhân có những phản biện chính sách và thực thi hiệu quả những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời khai thác có hiệu quả những hiệp định tự do mà Việt Nam là thành viên.
Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính hoan nghênh, đánh giá cao các doanh nghiệp, doanh nhân và quý vị đại biểu đã đóng góp nhiều đề xuất, ý kiến rất hay, trách nhiệm, tâm huyết, trí tuệ, sát thực tế và mang tính xây dựng.
Thủ tướng giao Văn phòng Chính phủ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, VCCI tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến để trình ban hành thông báo kết luận của Hội nghị, nhằm kịp thời xử lý, giải quyết kiến nghị của các doanh nghiệp, doanh nhân, giao các bộ ngành, địa phương tổ chức thực hiện kịp thời, hiệu quả, mang lại lợi ích chung cho đất nước và cho doanh nghiệp, doanh nhân.
Đánh giá về đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân, Thủ tướng nêu rõ: Chúng tôi rất vui mừng, tin tưởng và tự hào về doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức để phát triển lớn mạnh và trưởng thành, và đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
Đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, nhất là trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
Đảng, Nhà nước đã dành sự quan tâm thiết thực, kịp thời, cả trước mắt và lâu dài với đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân. Từ Đại hội lần thứ IX, Đảng đã đề cập đến vai trò của các doanh nghiệp Việt Nam. Ngày 9/12/2011, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Ngày 10/10/2023, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 41-NQ/TW tiếp tục khẳng định và đề cao vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân, trong đó nhấn mạnh: "Đội ngũ doanh nhân có vị trí, vai trò quan trọng, là một trong những lực lượng nòng cốt góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, bảo đảm quốc phòng, an ninh."
Chính phủ luôn bám sát, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, góp phần xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh, chính đáng. Đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân cũng luôn phát huy tinh thần đoàn kết, hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Thứ nhất, sau 20 năm kể từ khi có Ngày Doanh nhân Việt Nam, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ; số doanh nghiệp thành lập mới không ngừng gia tăng, là một điểm sáng của nền kinh tế, phản ánh nhu cầu và nỗ lực phát triển trong bối cảnh đất nước còn đối diện rất nhiều khó khăn, thách thức.
Số doanh nghiệp thành lập mới trong vòng 20 năm (2004-2023) đã đạt hơn 1,88 triệu, số doanh nghiệp thành lập mới năm 2023 tăng khoảng 4,3 lần so với năm 2004. Số doanh nghiệp thành lập mới 8 tháng đầu năm 2024 là trên 110.000, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2023. Ước tính số doanh nghiệp thành lập mới năm 2024 sẽ vượt con số 159.000 của năm 2023, là năm thứ ba liên tiếp lập kỷ lục. Lũy kế giai đoạn 2000 - 2024, số doanh nghiệp thành lập mới dự báo sẽ vượt con số 2,1 triệu. Mật độ doanh nghiệp đang hoạt động tăng khoảng 8,4 lần, từ 1,1 doanh nghiệp/1000 dân năm 2004 lên 9,2 doanh nghiệp/1000 dân năm 2023.
Thứ hai, các doanh nghiệp, doanh nhân có mặt ở hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, không chỉ trong nước mà nhiều doanh nghiệp, doanh nhân đã gây được tiếng vang, khẳng định giá trị thương hiệu vươn tầm ra khu vực và thế giới, góp phần đưa thương hiệu Việt ra toàn cầu và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
Đã có các doanh nghiệp dân tộc, tập đoàn kinh tế có quy mô lớn, giữ vai trò quan trọng, là nòng cốt, tiên phong dẫn dắt sự phát triển của các ngành, lĩnh vực và nền kinh tế, đóng góp vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của Thương hiệu quốc gia, như Viettel, PVN, Vingroup, FPT, THACO, Hòa Phát, TH, Vinamilk, Masan...
Nhiều doanh nghiệp đã vươn lên làm chủ công nghệ, đi đầu trong đổi mới sáng tạo, có thương hiệu, tạo dựng được hệ sinh thái cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng phát triển, tiên phong trong chuyền đổi xanh, chuyên đổi số, tham gia giải quyết các thách thức, bài toán lớn của quốc gia.
Thứ ba, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 hay tình hình biến đổi khí hậu, thiên tai, bão lũ xảy ra thường xuyên gây ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân đã và luôn nêu cao tinh thần chia sẻ đồng hành cùng đất nước, vượt khó, vượt khổ, tự lực, tự cường, nỗ lực thích ứng với hoàn cảnh thách thức để duy trì hoạt động, duy trì công ăn việc làm cho người lao động, sinh kế cho người dân.
Thứ tư, đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp đã phát huy tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm với xã hội, nhiều doanh nhân đã tích cực tham gia các chương trình xã hội, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, chương trình vì cộng đồng, gắn bó hơn với giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ năm, các doanh nghiệp, doanh nhân đã thường xuyên, tích cực đóng góp vào việc thực hiện đột phá chiến lược về thể chế, xây dựng chính sách và pháp luật.
Thứ sáu, trong năm 2024 có nhiều khó khăn, thách thức (do hậu quả kéo dài của đại dịch COVID-19; cạnh tranh chiến lược, xung đột, đứt gãy chuỗi cung ứng, sản xuất trên toàn cầu; thiên tai, biến khổi khí hậu), các doanh nghiệp, doanh nhân đã góp phần quan trọng vào giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và gần đây đã tự nguyện, tự giác góp phần khắc phục hậu quả bão số 3.
Nhân kỷ niệm 20 năm ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng nhiệt liệt biểu dương những nỗ lực và đóng góp quan trọng của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước thời gian qua.
Thời gian tới, trong bối cảnh khó khăn, thách thức và cơ hội, thuận lợi đan xen nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn, Thủ tướng nêu rõ, Chính phủ, các bộ ngành, địa phương tập trung thực hiện 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp.
Thứ nhất, kiến tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, thuận lợi, bình đẳng cho doanh nghiệp, doanh nhân, nhất là xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
Thứ hai, phát triển hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, toàn diện, gồm hạ tầng giao thông, năng lượng, viễn thông, y tế, giáo dục, văn hóa… để góp giảm chi phí logistics, giảm chi phí đầu vào, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế, tạo không gian phát triển mới, các khu công nghiệp, đô thị, dịch vụ mới, tăng giá trị của đất đai.
Thứ ba, đào tạo nhân lực chất lượng cao cho đất nước nói chung và các doanh nghiệp nói riêng
Thứ tư, hoàn thiện mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại, huy động mọi nguồn lực cho phát triển.
Thứ năm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp, doanh nhân, không hình sự hóa các quan hệ kinh tế - dân sự.
Thứ sáu, xây dựng đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp xứng tầm truyền thống lịch sử văn hóa, hào hùng dân tộc, anh hùng trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển nhanh, bền vững trong thời đại hòa bình.
"Tinh thần là thể chế thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Chính phủ, các bộ ngành, địa phương nói ít nhưng làm nhiều, đã nói là làm, đã cam kết phải thực hiện, không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm, đã làm, đã thực hiện phải ra sản phẩm cụ thể, đạt kết quả lượng hóa được, cân, đong, đo, đếm được", Thủ tướng nhấn mạnh.
Cùng với đó, Thủ tướng đề nghị các doanh nghiệp, doanh nhân thực hiện 5 tiên phong.
Thứ nhất, tiên phong thúc đẩy 3 đột phá chiến lược (thể chế, hạ tầng và nhân lực).
Thứ hai, tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đổi mới sáng tạo, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng) và thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tri thức, kinh tế ban đêm…)
Thứ ba, trong bối cảnh hiện nay, tiên phong góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế (thu đủ chi, xuất đủ nhập, làm đủ ăn, bảo đảm đủ năng lượng, cung cầu lao động đáp ứng yêu cầu phát triển).
Thứ tư, tiên phong xây dựng quản trị doanh nghiệp hiện đại để góp phần nâng cao năng lực quản trị đất nước theo hướng thông minh, Chính phủ trong sạch, liêm chính, vì nhân dân phục vụ.
Thứ năm, tiên phong củng cố, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, làm tốt công tác an sinh xã hội, không hy sinh tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần, không bỏ ai bị bỏ lại phía sau, góp phần vào phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, toàn diện.
"Với tinh thần "lợi ích hài hoà, rủi ro chia sẻ", hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, chúng ta hãy:"Cùng lắng nghe, thấu hiểu", "cùng sẻ chia tầm nhìn và hành động", "cùng làm, cùng thắng và cùng phát triển", "cùng hưởng niềm vui, hạnh phúc và tự hào"", Thủ tướng phát biểu.
Thủ tướng mong muốn và tin tưởng rằng, lực lượng doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam luôn thể hiện sự tiên phong trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích của quốc gia và dân tộc, vì sự hùng cường, thịnh vượng của đất nước, vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân.
"Mỗi người chúng ta hãy thể hiện tinh thần này bằng hành động cụ thể, cùng nhau đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, tới năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao", Người đứng đầu Chính phủ nêu rõ.
CỔNG TTĐT CHÍNH PHỦ