Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ

Hoạt động nghiên cứu khoa học tại trường Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH) - Ảnh: VGP/TG
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt của hệ thống khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số khi Luật Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo và Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị định hình tinh thần quản trị mới: Chuyển từ "kiểm soát rủi ro chặt chẽ" sang "quản trị rủi ro dựa trên dữ liệu, minh bạch và trách nhiệm giải trình".
Ông Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia (NAFOSTED) cho rằng, đây là bước ngoặt đưa Việt Nam tiệm cận thông lệ quốc tế của OECD, Hàn Quốc, Singapore, châu Âu và Hoa Kỳ; đồng thời đặt nền móng cho một hệ sinh thái quản trị rủi ro hiện đại, tích hợp số và phù hợp với các nguyên lý của Luật Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Theo ông Đào Ngọc Chiến, nghiên cứu khoa học luôn tiềm ẩn bất định - từ thay đổi công nghệ, hạn chế về thiết bị đến những biến động khách quan trong triển khai. Nếu quản trị rủi ro yếu, hệ thống dễ rơi vào hai cực đoan: Siết chặt quá mức khiến đổi mới sáng tạo bị "chết yểu", hoặc buông lỏng dẫn đến thất thoát, kém hiệu quả.
Trong khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, rủi ro là một phần tất yếu, Nhà nước phải kiến tạo một cơ chế chấp nhận rủi ro hợp lý để đổi mới sáng tạo được mở đường. Hơn nữa, quản trị rủi ro không chỉ là yêu cầu của Luật, mà còn là năng lực cốt lõi của một hệ thống KH&CN hiện đại. Nếu quản trị tốt rủi ro, chúng ta bảo vệ được ngân sách, bảo vệ nhà khoa học và trên hết, mở đường cho những đột phá mà xã hội kỳ vọng,
Theo định hướng đó, NAFOSTED đã xác định quản trị rủi ro là cấu phần trọng yếu trong mô hình vận hành của Quỹ.
Thời gian qua, Quỹ xây dựng khung quản trị rủi ro tổng thể; triển khai mô hình 3 tuyến phòng vệ theo thông lệ OECD; xây dựng bộ tiêu chí nhận diện, phân loại và chấm điểm rủi ro cho từng nhiệm vụ; áp dụng cơ chế giám sát theo “vòng đời nhiệm vụ” và đặc biệt, tích hợp toàn bộ quy trình quản trị rủi ro vào nền tảng số – Hệ thống quản lý nhiệm vụ KH&CN thời gian thực.
Mỗi nhiệm vụ phải xác định rõ rủi ro ngay từ hồ sơ đầu vào; quá trình xét chọn được hỗ trợ bởi đánh giá của hội đồng khoa học và phản biện kín; việc triển khai được giám sát liên tục qua hệ thống trực tuyến thời gian thực; các cảnh báo sớm được kích hoạt khi có dấu hiệu bất thường; và dữ liệu đầu ra được theo dõi tối thiểu 5 năm để đánh giá ứng dụng, thương mại hóa.
Ông Chiến cho biết, sự chuyển đổi này giúp Quỹ minh bạch hơn, dữ liệu hóa các chỉ báo rủi ro, cảnh báo sớm và phòng ngừa hiệu quả hơn, đồng thời mở rộng không gian để các nhà khoa học theo đuổi những ý tưởng táo bạo.

Hội thảo "Quản lý rủi ro trong tài trợ, cấp kinh phí và thực hiện nghiên cứu KH&CN" do NAFOSTED tổ chức ngày 25/11 - Ảnh: VGP/TG
Từ góc độ chính sách, bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên (Bộ KH&CN) cho rằng quản trị rủi ro không chỉ là một yêu cầu kỹ thuật, mà là triết lý quản lý mới của nền khoa học Việt Nam - nơi đổi mới sáng tạo được khuyến khích bằng chính sự chấp nhận rủi ro.
Luật Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo 2025 và các nghị định liên quan lần đầu tiên thể chế hóa quan điểm "dám thử nghiệm - chấp nhận rủi ro - kiến tạo đổi mới", xác lập ba loại rủi ro có thể chấp nhận: Rủi ro trong nghiên cứu, rủi ro trong thử nghiệm có kiểm soát và rủi ro trong đầu tư mạo hiểm
Đặc biệt, Điều 9 của Luật, quy định tổ chức, cá nhân làm khoa học được loại trừ trách nhiệm hành chính và miễn trách nhiệm dân sự khi đã tuân thủ quy trình, không gian lận và không sử dụng sai mục đích kinh phí nhưng kết quả không đạt kỳ vọng. Đây là cơ chế bảo vệ nhà khoa học - một bảo đảm pháp lý quan trọng để họ mạnh dạn theo đuổi các hướng nghiên cứu tiên phong.
Nghị định 267/2025/NĐ-CP cũng xác định rõ 3 nhóm rủi ro được chấp nhận và yêu cầu mỗi nhiệm vụ phải nhận diện, phân tích, dự báo và bố trí phương án quản trị rủi ro ngay từ khi xây dựng.
Không chỉ đối với quá trình nghiên cứu, quản trị rủi ro còn được đưa vào toàn bộ quy trình xét tài trợ và đặt hàng nhiệm vụ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nhiệm vụ sử dụng ngân sách nhà nước sẽ được phân loại theo mức độ rủi ro dựa trên tính mới của tri thức, mức độ tiên phong của công nghệ, khả năng dự báo kết quả đầu ra, điều kiện triển khai và tác động dự kiến.
Việc phân loại này giúp cơ quan quản lý xây dựng trần kinh phí phù hợp, thiết kế cơ chế đầu tư hợp lý và bảo đảm sử dụng ngân sách hiệu quả. Kết quả đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức KH&CN công lập cũng trở thành căn cứ điều chỉnh kế hoạch, ngân sách và nhân lực, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa quản trị rủi ro, đánh giá hiệu quả và phân bổ nguồn lực.
Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế, bà Nguyễn Thị Thu Oanh, nguyên Phó Giám đốc Ban Quản lý dự án "Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ" (dự án FIRST), cho biết các quốc gia phát triển đều coi quản lý rủi ro là yếu tố xuyên suốt vòng đời dự án.
Trung Quốc khuyến khích nghiên cứu rủi ro cao nhưng yêu cầu nghiêm ngặt về liêm chính và giám sát tài chính. Hàn Quốc phân định rõ trách nhiệm và đưa chi phí kiểm soát rủi ro vào chính dự án. Đức đề cao tính trung thực khoa học và minh bạch. Hoa Kỳ tách đánh giá rủi ro khỏi thành tích khoa học, đồng thời áp dụng điều kiện đặc biệt hoặc từ chối tài trợ nếu rủi ro vượt ngưỡng kiểm soát.
Kinh nghiệm này cho thấy rủi ro chỉ được chấp nhận khi nhà khoa học tuân thủ quy trình, không gian lận và không vi phạm tài chính; đồng thời hệ thống phải kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm đạo đức và gian lận.
Từ góc nhìn thực tiễn tài chính, bà Trần Hải Vân, Trưởng phòng Quản lý Rủi ro tín dụng Vietcombank, chia sẻ kinh nghiệm quản trị rủi ro khép kín của ngân hàng, nơi mỗi khoản tín dụng được thẩm định toàn diện từ hồ sơ pháp lý, dòng tiền đến môi trường kinh doanh. Ngân hàng xây dựng chân dung khách hàng, kiểm tra chéo dữ liệu, giám sát định kỳ và đột xuất, áp dụng cơ chế cảnh báo sớm để phát hiện bất thường. Phân cấp thẩm quyền rõ ràng giúp tăng tính minh bạch và rút ngắn thời gian xử lý, nhưng vẫn đảm bảo an toàn hệ thống.
Bài học rút ra cho lĩnh vực tài trợ KH&CN là quản trị rủi ro phải dựa trên nhận diện, đo lường, giám sát liên tục, đồng thời duy trì sự linh hoạt để không cản trở đổi mới sáng tạo.
Với sự chuyển đổi mạnh mẽ này, quản trị rủi ro đang trở thành nền tảng của một hệ thống KH&CN năng động và hiệu quả. Nếu được triển khai tốt, cơ chế quản trị rủi ro không chỉ bảo vệ ngân sách, bảo vệ nhà khoa học mà còn mở đường cho những đột phá mà xã hội kỳ vọng, hướng tới một nền KH&CN hiện đại, minh bạch và bền vững.
Thu Giang