Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Luật Tình trạng khẩn cấp được thông qua có 6 chương, 36 điều, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2026.
Theo quy định của luật, tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội được cấp có thẩm quyền ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp tại một hay nhiều địa phương hoặc trên phạm vi cả nước khi có thảm họa hoặc nguy cơ xảy ra thảm họa đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người, tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân, hoặc có tình hình đe dọa nghiêm trọng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Theo quy định của luật, tình trạng khẩn cấp gồm tình trạng khẩn cấp về thảm họa; tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; tình trạng khẩn cấp về quốc phòng.
Về thẩm quyền, Luật nêu rõ Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.
Thủ tướng đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Nếu Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, Thủ tướng đề nghị Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.
Tình trạng khẩn cấp được bãi bỏ khi không còn nguy cơ xảy ra thảm họa hoặc thảm họa đã được ngăn chặn, khắc phục; tình hình quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội đã ổn định.
Đáng chú ý, luật quy định rõ thẩm quyền áp dụng biện pháp trong tình trạng khẩn cấp. Theo đó, trong trường hợp thật cần thiết, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, tính mạng, sức khỏe của người dân, sau khi được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền, Thủ tướng có quyền quyết định áp dụng các biện pháp mà pháp luật chưa quy định để ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp, hoặc áp dụng các biện pháp quy định trong luật này khi chưa ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp. Thủ tướng sẽ báo cáo việc áp dụng các biện pháp này với cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong thời gian gần nhất.
Luật cũng quy định rõ, việc áp dụng, điều chỉnh, chấm dứt các biện pháp trong tình trạng khẩn cấp phải bảo đảm kịp thời, công khai, minh bạch. Các biện pháp làm hạn chế quyền con người, quyền công dân phải thực sự cần thiết, có căn cứ rõ ràng, tương xứng với tính chất, mức độ sự cố, thảm họa và không phân biệt đối xử.
Việc quyết định các biện pháp nhằm ứng phó, khắc phục hậu quả trong tình trạng khẩn cấp gây ra thiệt hại thì người ra quyết định không phải chịu trách nhiệm khi quyết định đó dựa trên thông tin tại thời điểm ra quyết định có mục đích chính đáng, đúng thẩm quyền và không có động cơ vụ lợi.
Trong Báo cáo giải trình tiếp thu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi Quốc hội biểu quyết thông qua luật, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định giao Chính phủ quy định tiêu chí định lượng, định tính, ngưỡng kích hoạt, cấp độ về tình trạng khẩn cấp.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, các sự cố, tình huống khẩn cấp rất đa dạng, trong nhiều lĩnh vực, có tính chất, mức độ, diễn biến, đặc điểm khác nhau. Do đó, việc lượng hóa để xác định ngưỡng chính xác khi nào chuyển từ tình huống cấp bách sang tình trạng khẩn cấp là không khả thi.
Thực tế, có những sự cố, thảm họa khi có nguy cơ xảy ra hoặc xảy ra đã phải ban bố tình trạng khẩn cấp mà không qua các cấp độ phòng thủ dân sự (sóng thần, sự cố bức xạ, hạt nhân...).
Bên cạnh đó, các tình huống về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội dẫn đến tình trạng khẩn cấp thì không áp dụng cấp độ phòng thủ dân sự để ứng phó, khắc phục.
Dự thảo luật đã giao Thủ tướng đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, nếu Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì đề nghị Chủ tịch nước công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội không bổ sung nội dung trên vào luật.
Hải Liên