Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Ảnh minh họa |
Bộ Tài chính cho biết, hiện nay việc giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và doanh nghiệp có vốn Nhà nước được thực hiện theo hướng dẫn của Nghị định 61/2013/NĐ-CP ngày 25/6/2013 và các Thông tư hướng dẫn.
Qua rà soát, một số nội dung quy định tại Nghị định 61/2013/NĐ-CP cần phải điều chỉnh để phù hợp với quy định của Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Ngoài ra, trong năm 2014 và đầu năm 2015, Bộ Tài chính đã tổ chức khảo sát trực tiếp và lấy ý kiến đánh giá bằng văn bản của các cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước và các Tập đoàn/Tổng công ty về tình hình triển khai Nghị định 61/2013/NĐ-CP. Bên cạnh những mặt tích cực, Nghị định 61/2013/NĐ-CP còn tồn tại một số hạn chế như: Với cơ chế cơ quan đại diện chủ sở hữu và Bộ Tài chính chỉ thực hiện giám sát đối với công ty mẹ của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, sẽ không đảm bảo việc giám sát toàn diện và kịp thời đối với các doanh nghiệp là công ty con. Bên cạnh đó, chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của doanh nghiệp và cơ quan đại diện chủ sở hữu trong việc tổ chức giám sát; thời gian để các Tập đoàn hoàn thành Báo cáo giám sát còn ngắn so với thực tế của doanh nghiệp.
Theo Nghị định 61/2013/NĐ-CP, các doanh nghiệp có thể hạ thấp kế hoạch năm để dễ hoàn thành hoặc hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch; tiêu chí xếp loại doanh nghiệp về tính tuân thủ pháp luật chưa phù hợp với thực tế (VD: Doanh nghiệp bị phạt hành chính 10 triệu đồng trở lên bị xếp loại C); các chỉ tiêu, tiêu chí đánh giá, xếp loại phải quy định từ quý đầu tiên của năm kế hoạch là chưa phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp được đặt vào tình trạng giám sát tài chính đặc biệt nếu tình hình tài chính thuộc chỉ một trong các trường hợp: kinh doanh thua lỗ, có hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu vượt quá mức an toàn theo quy định; có số lỗ phát sinh từ 30% vốn chủ sở hữu trở lên hoặc số lỗ lũy kế lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu; có hệ số khả năng thanh toán nợ đến hạn nhỏ hơn 0,5... và phải lập phương án tái cơ cấu dù thuộc trường hợp nào là chưa phù hợp với thực tế.
Ngoài ra, Nghị định 61/2013/NĐ-CP chưa có cơ chế giám sát công tác công khai thông tin…
Nội dung giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp
Nhằm thay thế Nghị định 61/2013/NĐ-CP, Bộ Tài chính đã dự thảo Nghị định mới gồm 7 chương 51 điều. Bên cạnh những
quy định chung, dự thảo đã nêu rõ những quy định cụ thể về giám sát tài
chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và xếp loại đối với doanh nghiệp do
nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; giám sát vốn doanh nghiệp tại công ty
do doanh nghiệp nắm giữ 100% vốn điều lệ, vốn của doanh nghiệp đầu tư
tại công ty cổ phần, công ty TNHH hai thành viên trở lên; giám sát tài
chính đặc biệt; đánh giá hiệu quả hoạt động và xếp loại doanh nghiệp.
Theo dự thảo, nội dung giám sát hoạt động đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp thực hiện theo quy định tại Khoản 2,3,4,5,6 Điều 51 Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, trong đó trọng tâm bao gồm: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội của việc đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, quyền và việc thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu trong đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp.
Quý IV hằng năm, căn cứ yêu cầu quản lý của Chính phủ, Bộ Tài chính lập Kế hoạch giám sát hoạt động đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, lấy ý kiến của các Bộ, ngành liên quan, thống nhất với Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán Nhà nước, công bố trước ngày 31/1 hằng năm. Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực hiện Kế hoạch giám sát hoạt động đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp đã được công bố.
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.
Tuệ Văn