Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Mai Trực trình bày tham luận tại Đại hội. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Không có "vùng cấm", không có ngoại lệ trong phòng chống tham nhũng
Trong nhiệm kỳ vừa qua, Uỷ ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương và UBKT các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với hơn 15.000 tổ chức đảng và hơn 47.000 đảng viên (trong đó hơn 23.000 là cấp ủy viên các cấp), giám sát hơn 183.000 tổ chức đảng và hơn 528.000 đảng viên (trong đó hơn 154.000 là cấp ủy viên các cấp); tập trung nhiều vào những điểm "nóng", những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, những vấn đề bức xúc mà dư luận quan tâm.
Trong đó có nhiều việc mới, việc tồn tại đã lâu, rất khó khăn, phức tạp, nhạy cảm, liên quan nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương, gây bức xúc trong xã hội đã được phát hiện, làm rõ, kết luận và xử lý kỷ luật nghiêm minh nhiều tổ chức đảng và đảng viên vi phạm (quyết định kỷ luật và đề nghị cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật hơn 1.300 tổ chức đảng và gần 70.000 đảng viên vi phạm), có cả những đồng chí giữ cương vị cao của Đảng, Nhà nước, lãnh đạo chủ chốt các địa phương, đơn vị, sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang, đương chức hoặc đã nghỉ hưu,... với tinh thần làm nghiêm từ trên xuống, không có "vùng cấm", không có ngoại lệ, nhưng cũng rất nhân văn, mục đích chính là làm cho tổ chức đảng, đảng viên thấy được vi phạm, khuyết điểm của mình để sửa chữa, khắc phục.
Điều đó đã khẳng định quyết tâm chính trị cao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp và bản lĩnh của ngành kiểm tra trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Các tổ chức đảng sau khi được kiểm tra, giám sát đều đã quyết tâm khắc phục, sửa chữa vi phạm khuyết điểm, siết chặt lại kỷ luật, kỷ cương, tập trung lãnh đạo chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị đạt nhiều kết quả tích cực.
Một số kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tạo tiền đề cho các ngành chức năng xử lý các vụ việc theo quy định của pháp luật (như các vụ án liên quan đến Phan Văn Anh Vũ, vụ Đinh Ngọc Hệ, vụ AVG, vụ BIDV...).
“Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo”
Qua thực tiễn của nhiệm kỳ Đại hội XII, công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm như:
Các cấp ủy, tổ chức Đảng, nhất là người đứng đầu cấp ủy phải thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát ở địa phương, đơn vị một cách chủ động, thường xuyên, liên tục theo tinh thần “lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo”. Thực tiễn cho thấy, ở đâu và khi nào, người đứng đầu cấp ủy quan tâm, coi trọng và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, thì ở đó, vai trò trách nhiệm của UBKT được phát huy, hoạt động kiểm tra, giám sát được đẩy mạnh; nội bộ đoàn kết thống nhất; kỷ luật, kỷ cương được giữ vững, cán bộ, đảng viên ít vi phạm; thực hiện nhiệm vụ chính trị đạt kết quả tốt; tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Việc xác định phương hướng nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát phải thiết thực, toàn diện, đồng bộ, bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị trong từng thời kỳ và gắn với giải quyết các vấn đề cán bộ, đảng viên và nhân dân đang quan tâm.
Thực hiện đồng bộ giữa kiểm tra và giám sát theo phương châm: “giám sát phải mở rộng”, “kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm”, trong đó coi trọng giám sát để nhắc nhở, cảnh báo, chủ động phòng ngừa. Việc xử lý kỷ luật phải nghiêm minh, song, cần phải trên tinh thần nhân văn, “trị bệnh cứu người”, vi phạm của đảng viên nhất là vi phạm có liên quan đến tham nhũng cần phải được phát hiện trước hết trong nội bộ tổ chức đảng để sớm ngăn chặn ngay từ khi mới manh nha.
Phải chú trọng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có bản lĩnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội để kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý và công khai kết quả xử lý tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên có vi phạm.
Xây dựng cơ chế để cán bộ, đảng viên "không thể tham nhũng", "không dám tham nhũng", “không cần tham nhũng"
Nhiệm kỳ Đại hội XIII, công tác kiểm tra giám sát cần nhận thức đúng, đầy đủ hơn và tập trung thực hiện đồng bộ một số nhiệm vụ chủ yếu:
Tiếp tục khẳng định kiểm tra, giám sát là những chức năng, phương thức lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, trước hết là của cấp ủy và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nói - "là thanh bảo kiếm của Đảng"- nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp.
Ngay sau Đại hội, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải bám sát nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng nói chung cũng như thực tiễn của từng địa phương, đơn vị. Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và các quy định về PCTN, lãng phí gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực và kỷ luật của Đảng, kỷ luật hành chính, xử lý bằng pháp luật gắn với việc xây dựng hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức để cán bộ đảng viên "không thể tham nhũng", "không dám tham nhũng", “không cần tham nhũng"; có cơ chế để bảo vệ, khuyến khích cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn, đi đầu trong đổi mới vì sự phát triển.
Cấp ủy các cấp phải thường xuyên tự kiểm tra, nhất là đối với cấp ủy viên và cán bộ diện cấp ủy cấp mình quản lý, kịp thời chỉ ra những ưu điểm để phát huy, phát hiện những hạn chế, khuyết điểm để chủ động khắc phục, chấn chỉnh; tăng cường giám sát chuyên đề, trong đó mở rộng giám sát trên tất cả các địa bàn, lĩnh vực, tập trung vào những nơi nội bộ có biểu hiện mất đoàn kết, có vấn đề phức tạp mới nảy sinh, dư luận xã hội quan tâm để chủ động nhắc nhở, cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm từ sớm.
Ủy ban Kiểm tra các cấp tổ chức thực hiện toàn diện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp ủy giao, trọng tâm là kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm với tinh thần chủ động hơn, nỗ lực quyết tâm cao hơn, hành động quyết liệt hơn, tập trung vào những nơi có vấn đề phức tạp, điểm “nóng”, những địa bàn, lĩnh vực dễ nảy sinh vi phạm, chú trọng những dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, những vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội trên các lĩnh vực. Việc xử lý kỷ luật phải nghiêm minh, kịp thời, không có “vùng cấm”, không có ngoại lệ, song, phải trên tinh thần nhân văn, “trị bệnh cứu người”, mục đích là làm cho tổ chức đảng, đảng viên tiến bộ hơn, làm tốt hơn.
Ủy ban Kiểm tra cấp trên tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp dưới trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa UBKT với các Đảng ủy, Ban Cán sự Đảng, Đảng đoàn liên quan; phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử.
Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật. Nâng cao khả năng dự báo về tình hình vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, nhất là những vi phạm mới do tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ mới...
Kiện toàn Ủy ban Kiểm tra, tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành kiểm tra của Đảng đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, tương xứng, ngang tầm thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.