Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Báo cáo tại “Hội nghị giao ban xúc tiến thương mại với hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tháng 5/2023 với chủ đề “Xúc tiến thương mại các mặt hàng quả vải và nhãn”, diễn ra chiều 31/5, ông Trần Quang Tấn, Giám đốc Sở Công Thương Bắc Giang cho biết: Thời gian qua, địa phương đã tập trung đầu tư, ứng dụng khoa học kỹ thuật nên chất lượng vải thiều Bắc Giang năm 2023 cao nhất từ trước đến nay. Ước sản lượng vải toàn tỉnh năm 2023 trên 180.000 tấn; thời gian thu hoạch vải thiều từ ngày 25/5 đến ngày 30/7/2023.
Năm nay, thị trường xuất khẩu của vải thiều Bắc Giang, Trung Quốc tiếp tục được xác định là thị trường truyền thống, các thị trường tiềm năng là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Malaysia; UAE, Singapore, Trung Đông, Thái Lan, Hongkong (Trung Quốc)...
Đối với tỉnh Hải Dương, ông Trần Văn Hảo, Giám đốc Sở Công Thương Hải Dương cho hay: năm 2023, vải của tỉnh dự kiến khoảng 61.000 tấn; trong đó, vải sớm khoảng 31.000 tấn; vải thiều chính vụ khoảng 30.000 tấn. Vải của Hải Dương hầu hết được sản xuất theo quy trình an toàn, trong đó có 500 ha vải được chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap và GlobalGAP, đủ điều kiện xuất khẩu sang các thị trường cao cấp.
Ngoài ra, hiện toàn tỉnh Hải Dương có 203 mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu, có 21 mã số cơ sở đóng gói xuất khẩu sang các thị trường; trong đó Trung Quốc là 13 mã, còn lại là Hoa Kỳ, Australia, Newzeland, Nhật Bản và Thái Lan. Vải của Hải Dương mẫu mã đẹp, thời gian thu hoạch vải sớm bắt đầu từ ngày 15/5 đến ngày 5/6. Vải thiều chính vụ bắt đầu thu từ ngày 05/6 đến hết tháng 6/2023, tập trung trong khoảng từ 10-20/6.
Đối với trái nhãn, hiện có diện tích canh tác toàn tỉnh trên 4.730 ha, tổng sản lượng khoảng 45.000 tấn (giảm khoảng 10% so với năm 2022).
Thời điểm thu hoạch đối với trà nhãn sớm khoảng nửa cuối tháng 6 đến đầu tháng 7/2023, sản lượng khoảng 9.000 tấn; trà chính vụ từ giữa tháng 7 đến tháng 8/2023 sản lượng khoảng 28.500 tấn; trà muộn nửa cuối tháng 8 đến đầu tháng 10/2023, sản lượng khoảng 7.500 tấn.
Bên cạnh thuận lợi, các địa phương đang gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong tiêu thụ và xuất khẩu.
Ông Trần Quang Tấn nêu, hiện chi phí vận chuyển vải thiều bằng đường hàng không cao; chưa triển khai công nghệ bảo quản vải thiều để vận chuyển bằng đường biển; tình trạng việc ùn tắc tại các cửa khẩu biên giới phía bắc hằng năm vẫn diễn ra; việc chiếu xạ vải thiều tại Hà Nội để sang thị trường Hoa Kỳ đang trong quá trình triển khai; năng lực trong việc tiếp cận, đàm phán, ký kết hợp tác của các doanh nghiệp, hợp tác xã còn hạn chế; vải thiều vẫn chủ yếu được tiêu thụ, xuất khẩu quả vải tươi.
Đồng quan điểm, ông Trần Văn Hảo cũng chỉ ra một số khó khăn đối với doanh nghiệp địa phương như năng lực tiếp cận và đàm phán ký kết xuất khẩu sản phẩm còn hạn chế; tình hình kinh tế các nước EU khó khăn ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ của thị trường đối với mặt hàng quả vải, nhãn từ Việt Nam, còn nhiều rủi ro về thanh toán tại một số thị trường...
Trước tình hình đó, đại diện các địa phương đề xuất, kiện nghị các bộ, ngành, trong đó có Bộ Công Thương, Hiệp hội doanh nghiệp, Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần tăng cường đẩy mạnh hỗ trợ, kết nối tiêu thụ, xuất khẩu, đưa nông sản Việt Nam ra thế giới.
Cùng nhìn nhận vào những khó khăn trong việc xuất khẩu trái vải, ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội rau quả Việt Nam cho biết, kim ngạch xuất khẩu trái vải năm 2021 đạt 48 triệu USD, năm 2022 sụt gần 42% so với năm trước. Nguyên do, Trung Quốc thực hiện chính sách Zero-COVID khiến xuất khẩu qua biên giới rất khó khăn. Thương lái thu mua trái vải của Trung Quốc không qua Việt Nam thu mua và thực hiện các hợp đồng.
Với các thị trường khác như Mỹ, EU thì chi phí logistics quá cao do phải vận chuyển bằng máy bay ảnh hưởng tới sức cạnh tranh về giá của sản phẩm.
Với nhãn, kim ngạch xuất khẩu nhãn năm 2021 đạt 23,3 triệu USD, năm 2022 giảm 40% còn 14 triệu USD. Tương tự trái vải, chính sách zero COVID là nguyên nhân khiến xuất khẩu vải giảm sút mạnh. Cùng đó, ngày 27/10/2022 Trung Quốc ký nghị định thư cho phép Campuchia xuất khẩu chính ngạch nhãn sang Trung Quốc cũng là nguyên nhân khiến xuất khẩu trái cây này giảm.
Năm 2023, Trung Quốc bỏ chính sách zero Covid và mở cửa khẩu là điều kiện rất thuận lợi cho Việt Nam đẩy mạnh trở lại xuất khẩu quả vải, nhãn sang thị trường này. Mặt khác, mùa vải của Việt Nam đúng vào thời điểm cuối mùa vải của Trung Quốc cũng là cơ hội tốt cho vải của Việt Nam chen chân vào thị trường tỷ dân này.
Vì vậy, để tiêu thụ tốt vải và nhãn, ông Đặng Phúc Nguyên đề nghị Bộ Công Thương làm việc với cơ quan hải quan mở một cửa khẩu riêng cho trái nhãn và vải để thuận lợi cho thông quan, hạn chế thời gian chờ đợi do loại nông sản này rất khó bảo quản và nhanh hỏng.
Đánh giá Hoa Kỳ hiện là thị trường tiềm năng đối với nông sản Việt Nam, tuy nhiên, để tiếp cận thị trường tiềm năng này, ông Đỗ Ngọc Hưng, Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho rằng, có một số trở ngại, như: Khoảng cách địa lý quá xa dẫn đến thời gian vận chuyển kéo dài; chưa có cơ sở chiếu xạ theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ đặt tại miền Bắc. Đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam là Trung Quốc, Mexico có nhiều kinh nghiệm, hệ thống phân phối rộng khắp, giá cả cạnh tranh, chi phí vận chuyển thấp.
Để tháo gỡ rào cản đối cho nông sản Việt Nam, ông Hưng thông tin, Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ đã phối hợp với các cơ quan liên quan trong và ngoài nước từng bước tháo gỡ khó khăn nhằm mở rộng thị phần quả vải tại thị trường Hoa Kỳ, trong đó tham mưu và đề xuất cơ chế nhằm giải quyết vướng mắc liên quan đến việc tham gia của Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội vào chương trình tiền chứng nhận của Cơ quan Kiểm dịch động thực vật Hoa Kỳ (APHIS). Đàm phán với APHIS và được phép bổ sung thêm 1 đầu mối đối tác là doanh nghiệp của Bắc Giang vào danh sách Corporator thay mặt Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội ký kết thỏa thuận với APHIS về việc chứng nhận cơ sở chiếu xạ xuất khẩu vải sang Hoa Kỳ.
Ông Lê Phú Cường, Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Malaysia cho hay, để mở rộng xuất khẩu nhãn, vải nói riêng, nông sản nói chung của Việt Nam sang Malaysia, doanh nghiệp cần có biện pháp bảo quản sản phẩm để vận chuyển bằng đường biển, giảm chi phí, tăng tính cạnh tranh vơi sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Ông Cường lưu ý thêm, thị trường nhãn của Malaysia, Thái Lan gần như độc quyền tuy nhiên dung lượng thị trường mặt hàng nhãn rất lớn. Đây là điều đáng lưu ý cho các doanh nghiệp xuất khẩu nhãn của Việt Nam. Ngoài ra, hiện Chính phủ Malaysia đang thúc đẩy áp dụng chứng chỉ Halal với sản phẩm nhập khẩu vào thị trường này, doanh nghiệp trong nước nên chú ý vấn đề này. Theo đó, cần xây dựng thương hiệu và quảng bá thương hiệu sản phẩm, cần chú ý định vị sản phẩm vải, nhãn ở phân khúc thị trường cao cấp hoặc trung bình để đưa vào hệ thống phân phối phù hợp.
Còn theo ông Nguyễn Hữu Quân, Chi nhánh Thương vụ Việt Nam tại Nam Ninh (Trung Quốc), các địa phương, doanh nghiệp cần chủ động kết hợp với các đối tác nhập khẩu trong việc xây dựng, quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và các sản phẩm chủ lực của doanh nghiệp mình bên cạnh việc nắm vững và đáp ứng tốt các yêu cầu về kiểm dịch, chất lượng của thị trường Trung Quốc. Chủ động xây dựng kênh trao đổi trực tiếp với các Thương vụ trên cơ sở nắm rõ nhu cầu xuất khẩu của doanh nghiệp địa phương.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cho rằng, với mặt hàng có tính mùa vụ như vải và nhãn, các địa phương, doanh nghiệp, đơn vị cần chanh chóng có biện pháp để đảm bảo tiêu thụ, xuất khẩu hiệu quả.
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ xuất khẩu, tiêu thụ mặt hàng vải và nhãn nói chung và trái cây nói riêng, Thứ trưởng yêu cầu các đơn vị Bộ Công Thương cần tiếp tục nắm bắt cập nhật tình hình các sản phẩm nông sản, trái cây khi đến vụ, thường xuyên trao đổi với doanh nghiệp nhằm nắm bắt nhu cầu hỗ trợ xuất khẩu, tiêu thụ.
Đối với các Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Thứ trưởng đề nghị cần tăng cường theo dõi và thường xuyên cập nhật thông tin liên quan đến diễn biến thị trường, thông tin thị trường, chính sách thương mại, tiêu chuẩn điều kiện xuất khẩu và chính sách đối với từng mặt hàng chủ lực, kịp thời tham mưu cho Lãnh đạo Bộ để có định hướng và chỉ đạo kịp thời hỗ trợ địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp.
“Đặc biệt, các đơn vị thuộc Bộ, nhất là Cục Xúc tiến thương mại phải tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ được giao tại các kỳ giao ban trước, có các giải pháp tháo gỡ từ các kiến nghị của doanh nghiệp, địa phương; đồng thời đẩy mạnh công tác nghiên cứu chính sách, dự báo nhằm tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp trong xúc tiến thương mại và xuất nhập khẩu”, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải yêu cầu.
Phan Trang