Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Đã đạt phần lớn mục tiêu xóa đói giảm nghèo trên phạm vi quốc gia
Trên bình diện quốc gia, mục tiêu giảm một nửa tỷ lệ nghèo đã được hoàn thành, khẳng định kết quả của những nỗ lực vượt bậc trong giảm nghèo của Việt Nam trong hai thập kỷ qua.
Tỷ lệ nghèo của Việt Nam liên tục giảm, từ 58,1% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002 và tiếp tục giảm xuống còn 16% năm 2006 và 14,5% vào năm 2008. Bình quân mỗi năm giảm được khoảng 1,8 triệu người nghèo, từ hơn 40 triệu người nghèo năm 1993 xuống 12,5 triệu người nghèo năm 2008.
Tỷ lệ người đói, đo lường bằng chuẩn nghèo lương thực thực phẩm, giảm từ 24,9% năm 1993 xuống còn 10,9% năm 2002 và 6,9% năm 2008. Nếu theo chuẩn 1 đô la (PPP), Việt Nam đã vượt ra Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ “giảm 50% tỷ lệ người dân có mức thu nhập dưới mức 1 đô la (PPP)/ngày trong giai đoạn 1990 – 2015”. Tỷ lệ này đã giảm từ 39,9% năm 1993 xuống còn 4,1% năm 2008.
Tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm cũng giảm đi theo thời gian cho cả khu vực thành thị và nông thôn cũng như cho các nhóm dân tộc khác nhau. Năm 1993, có tới 29,1% người dân nông thôn và 1,8% người dân thành thị thuộc nhóm nghèo lương thực; đến năm 2008 chỉ có 9,2% người dân nông thôn và 0,9% người dân thành thị thuộc nhóm nghèo này.
Mức sống của người dân không ngừng được cải thiện. Chi tiêu bình quân tăng lên hơn hai lần từ mức trung bình 1.935 nghìn đồng/người/năm vào năm 1993 lên 4.546 nghìn đồng/người/năm vào năm 2008 (tính theo mức giá thực quy đổi về mốc tháng 1/1998). Nhìn chung, tốc độ tăng chi tiêu khá đồng đều giữa các nhóm dân cư.
Thách thức trong thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo
Ông Cao Viết Sinh, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch – Đầu tư khẳng định: Chúng ta đã đạt được phần lớn mục tiêu đề ra trong xóa đói giảm nghèo trên phạm vi quốc gia, tuy nhiên để đạt được mục tiêu này cho tất cả các đối tượng là một thách thức lớn.
Thống kê cho thấy, hầu hết chỉ số liên quan đến thực hiện các Mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở nhóm dân tộc thiểu số đều đạt thấp hơn so với mức trung bình, đặc biệt nếu so sánh với nhóm đa số (dân tộc Kinh) thì tồn tại một khoảng cách khá xa. Tỷ lệ hộ đói, đo bằng chuẩn nghèo lương thực thực phẩm của nhóm dân tộc thiểu số cao hơn gấp nhiều lần so với tỷ lệ đói của nhóm đa số. Số liệu thống kê cho thấy vào đầu thập kỷ 1990, chỉ có khoảng 18% người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số. Đến năm 1998, tỷ lệ này là 29%, năm 2004 lên 39%, năm 2006 là 47%, và tăng đều gần 56% vào năm 2008.
Phân tích về điều này, ông John Hendra, Điều phối viên Liên hợp quốc chỉ ra: Có nhiều nguyên nhân được tính đến, vị trí địa lý và điều kiện phát triển khó khăn ở nơi đồng bào sinh sống là yếu tố chủ yếu cản trở những nỗ lực chính sách của Nhà nước đến với đồng bào, hiệu quả thấp, lợi ích được hưởng từ tăng trưởng kinh tế chung hạn chế.
Nghèo đói cũng tập trung tại khu vực nông thôn, đặc biệt là ở các vùng khó khăn như miền núi, hải đảo. Hơn 95% người nghèo sống ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm ở nông thôn cao gấp 10 lần so với ở thành thị. Mức độ nghèo còn rất cao ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên với tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại trong những năm gần đây ở những vùng này.
Thêm vào đó, tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại, nguy cơ tái nghèo cao khi có những biến động về kinh tế như khủng hoảng, thất nghiệp cũng như những rủi ro về dịch bệnh, ốm đau, thiên tai khốc liệt và bất thường do biến đổi khí hậu.
Theo các chuyên gia, để giảm nghèo đói bền vững thời gian tới Việt Nam sẽ cần phải nỗ lực rất nhiều, không những phải làm tốt chính sách giúp các hộ nghèo thoát nghèo mà còn phải có các chính sách bảo vệ để những hộ không nghèo không rơi vào nghèo đói. Phát huy tốt vai trò của các tổ chức xã hội, thực hiện xóa đói giảm nghèo có sự tham gia của người dân. Cùng một lúc thực hiện tốt các vấn đề trên, Việt Nam sẽ cơ bản hoàn thành mục tiêu xóa đói giảm nghèo theo Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đã đề ra.