• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

TỔNG THUẬT: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị lần thứ 3 về phát triển bền vững ĐBSCL

(Chinhphu.vn) - Sáng 13/3, tại Cần Thơ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị lần thứ 3 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu.

13/03/2021 11:20
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao nhiều ý kiến, báo cáo, tham luận hết sức sâu sắc, tâm huyết, trách nhiệm, đầy trăn trở. Ản: VGP/Quang Hiếu

Hội nghị được tường thuật trực tiếp trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, fanpage Thông tin Chính phủ, truyền hình VTC và truyền hình của 13 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL và truyền hình TPHCM.

Quan điểm chiến lược tiếp cận mới với ĐBSCL

Sau khi lắng nghe 13 ý kiến, kết luận Hội nghị, Thủ tướng đánh giá cao nhiều ý kiến, báo cáo, tham luận hết sức sâu sắc, tâm huyết, trách nhiệm, đầy trăn trở. Rất tiếc do thời gian có hạn, nhiều chuyên gia, lãnh đạo doanh nghiệp, lãnh đạo các bộ, cơ quan, địa phương không có thời gian phát biểu. Điều đó cho thấy tình cảm mà các đại biểu, cũng như người dân theo dõi trực tuyến Hội nghị hôm nay, dành cho ĐBSCL thân thương. Miền Tây là một phần của Tổ quốc yêu thương.

Dẫn lại 2 câu thơ, “Song Cửu Long 9 cửa 2 dòng. Người thương anh vô số nhưng chỉ một lòng với em”, Thủ tướng nhấn mạnh, miền Tây là một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam yêu thương. Vùng ĐBSCL có 13 tỉnh, thành phố, chiếm 12% diện tích và 19% dân số cả nước, là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam, đóng góp 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, 65 % sản lượng nuôi trồng thủy sản…Đối với thế giới, đánh giá của WB cho thấy, ĐBSCL là vựa lúa chín chiếm khoảng 20% trong lượng gạo thương mại toàn cầu và chính miền Tây đã góp phần đảm bảo lương thực ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh.

Những chính sách, những giải pháp và hành động của Đảng, Chính phủ trong thời gian qua không đơn thuần được nhìn dưới góc độ là những chính sách phát triển kinh tế, mà còn thể hiện tinh thần trách nhiệm và sự sẻ chia của đồng bào, của nhân dân cả nước đối với người dân miền Tây Những hạt gạo, trái cây, con cá hàng ngày chúng ta ăn, phần nhiều trong số đó được lắng đọng từ những giọt phù sa, con nước quan bàn tay và sự lao động cần mẫn của người dân ĐBSCL.

Nhắc lại câu ca dao “Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây/Ăn gạo nhớ kẻ đâm, xay, giần, sàng”, qua kênh truyền hình trực tuyến do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ phối hợp với các đơn vị tổ chức để tường thuật trực tiếp Hội nghị, Thủ tướng chuyển lời cảm ơn đến những nông dân miền Tây cần cù, chịu thương, chịu khó, đã bảo đảm an ninh lương thực cho Việt Nam và một phần thế giới. 

Thủ tướng cho biết, cách đây một tuần, Chính phủ đã tổ chức “Đối thoại 2045” nhằm tìm kiếm giải pháp và chính sách đột phá để hiện thực hóa khát vọng Việt Nam trở thành một nước phát triển vào năm 2045, thực hiện di nguyện “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo chương trình nghị sự, sẽ có ít nhất một cuộc “Đối thoại 2045” như vậy được tổ chức ở vùng đất Chín Rồng để tìm kiếm những giải pháp đột phá hơn nữa, đưa khu vực này đi lên, không chỉ sánh vai cùng cả nước mà còn đóng góp quan trọng trên con đường phát triển thịnh vượng như tiêu đề Hội nghị hôm nay.

ĐBSCL là vùng đất nhân kiệt, nơi đã sinh ra và có đủ yếu tố hội tụ nhiều nhân tài nơi khác đến. Chúng ta cần xem đây một nguồn lực quan trọng, thậm chí là quyết định. Trong chiến lược ứng phó với thách thức của biến đổi khí hậu, tài lực, vật lực là quan trọng nhưng quyết định nhất là nhân lực, là con người, là chất xám, trí tuệ và cả cảm xúc và lòng dũng cảm.

Nhân dịp này, Thủ tướng khởi xướng tới đây ĐBSCL sẽ tổ chức một diễn đàn trong khuôn khổ sáng kiến “Đối thoại 2045” nhằm gặp gỡ đội ngũ trí thức, nhà khoa học, các doanh nghiệp, doanh nhân, những người có quá trình gắn bó và  đã, đang đầu tư vào vùng đất Chín Rồng để tìm giải pháp cho người dân ĐBSCL phát triển nhanh, bền vững hơn nữa.

Đến 2045, nếu thu nhập bình quân cả nước đạt mức cao nhưng thu nhập của người dân ĐBSCL vẫn ở mức trung bình và hằng ngày phải chống chịu với biến đổi khí hậu thì mục tiêu của chúng ta vẫn chưa đạt được, ước nguyện của Bác vẫn chưa thành.

Thành công được quyết định bằng những hành động cụ thể của các bộ, ngành và chính quyền các địa phương sau hội nghị hôm nay, Thủ tướng nêu rõ.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ rõ quan điểm chiến lược tiếp cận mới đối với ĐBSCL qua 8 chữ “8G” để dễ vận dụng trong thực tiễn. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Nói về các kết quả trong đầu tư phát triển ĐBSCL thời gian gần đây, Thủ tướng lưu ý, “không được kể công mà kết quả này hay là nhiệm vụ tới là trách nhiệm của Chính phủ, của cán bộ, công chức, của Thành ủy, của Tỉnh ủy, của UBND các tỉnh, thành phố”. Chúng ta biết các kết quả đó là đáng mừng nhưng kết quả đó chỉ là bước đầu quan trọng, còn nhiều việc phải làm.

Thủ tướng chỉ rõ quan điểm chiến lược tiếp cận mới đối với ĐBSCL qua 8 chữ “8G” để dễ vận dụng trong thực tiễn.

Chữ “G”  đầu tiên là “Giao”. Đó là phải dành nguồn lực và tập trung ưu tiên phát triển hệ thống giao thông thủy lợi và cơ sở hạ tầng gắn với tầm nhìn chung của toàn vùng ĐBSCL, nhất là hệ thống đường cao tốc, tạo sự kết nối thuận tiện, chi phí thấp, thúc đẩy giao thương, mở mang kinh tế cho người dân, làm cơ sở ứng phó hiệu quả với thách thức của biến đổi khí hậu.

Chúng ta đưa ra Nghị quyết 120 với tinh thần là thuận thiên, là thích ứng nhưng “không phải chúng ta giao cho trời đất, tác động thế nào cũng được mà cái chính là những công trình giao thông, thủy lợi cần phải được quan tâm, những nơi sạt lở, gây mất mát cho đồng bào chúng ta thì cần phải được quan tâm”.

Chữ G thứ hai là Giáo. Đó là giáo dục và phát triển nguồn nhân lực. Có thể nói giáo dục là chìa khóa vàng của phát triển bền vững. Đối với ĐBSCL, giáo dục vừa là đáp án cho bài toán phát triển ngắn hạn lẫn dài hạn. Hệ thống giáo dục của đồng bằng sông Cửu Long cần chú trọng nội hàm của mô thức “giáo dục, giáo dục và giáo dục”.  Cụ thể là giáo dục cơ bản, đảm bảo tất cả mọi người, đặc biệt là trẻ em, cần phải được học hết bậc phổ thông, không được phép để trẻ em nào không được đến trường vì không có điều kiện tài chính. Giáo dục thứ hai là giáo dục nghề, đảm bảo cho người dân có cơ hội tiếp cận việc làm cơ bản. Thứ ba là giáo dục trình độ cao, là cơ sở để chuyển đổi lên bậc nấc cao hơn về năng suất và thu nhập, bắt kỳ nhóm thu nhập cao của cả nước. Thủ tướng cho rằng, vấn đề giáo dục đào tạo chưa được nổi bật và sắc nét trong Nghị quyết 120, đề nghị bổ sung một số nội dung trọng tâm về vấn đề này vào Nghị quyết.

Chữ G thứ 3 là  “Giang” (sông). Kinh tế và sinh kế của người dân nơi đây gắn liền với các con sông như Tiền Giang, Hậu Giang và nhiều con sông khác. Chiến lược phát triển cần tận dụng được lợi thế, phát huy vai trò của các con sông để phát triển kinh tế nông nghiệp, lúa gạo, trái cây, thủy sản, giao thông và đặc biệt là hệ thống logistic đường sông thì mới thành công. Không có dòng sông, con rạch không phải là văn hóa của miền Tây. “Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ”, vai trò của các con sông là yếu tố không thể không nói tới khi nhắc về ĐBSCL. Vấn đề này vẫn còn mờ nhạt trong Nghị quyết 120, Thủ tướng đề nghị nghiên cứu khái niệm “kinh tế sông”.

Chữ G thứ tư là  “Gắn”. Đó là gắn kết giữa Trung ương với địa phương, nhà nước với thị trường, người dân và doanh nghiệp, giữa trong nước và tổ chức, nhà đầu tư quốc tế, đặc biệt là gắng liên kết vùng ĐBSCL để cùng phát triển bền vững.

Chữ G thứ 5 là  “Giàu”. Đó là tích cực thu hút được những người giàu, người khá giả, doanh nghiệp có tiềm lực đến đầu tư phát triển kinh tế địa phương. Để có nguồn lực phát triển cần phải xây tổ đón ‘đại bàng”. Muốn vậy cần phải cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và mỗi địa phương.

Chữ G thứ 6 là  “Giỏi”, là tích cực thu hút những tài năng đóng góp chất xám, trí tuệ cho sự phát triển ĐBSCL. Do đó, cần có chính sách chung thu hút giới tài năng trở về hoặc đến đóng góp vì sự phát triển của vùng đất Chín Rồng này. Vấn đề này vẫn chưa được đề cập trong Nghị quyết 120, đây là một thiếu sót, Thủ tướng đề nghị phải phát huy vai trò, thu hút tốt hơn nữa những tài năng đến với ĐBSCL.

Chữ G thứ 7 là  “Già”. ĐBSCL có mức độ dân số già hóa cao hơn bình quân cả nước. Đây là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương về mặt kinh tế xã hội lẫn môi trường. Do đó, ĐBSCL cần có chính sách chủ động cho vấn đề dân số già hóa và hình thành mạng lưới an sinh xã hội tốt hơn để nâng đỡ phúc lợi cho người già và những người yếu thế. Sau 3 năm triển khai Nghị quyết 120 chúng ta thấy vấn đề già hóa dân số đang nổi lên nhưng nội hàm này vẫn còn thiếu trong Nghị quyết, cần được bổ sung, hoàn thiện.

Chữ G thứ 8 là  “Giới”, tức là thúc đẩy bình đẳng giới, tiếp cận cơ hội việc làm và phát huy vai trò, vị trí của người phụ nữ. Thủ tướng đề nghị đưa vấn đề này vào Nghị quyết 120.

Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Giao nhiệm vụ cụ thể đối với các bộ, ngành, Thủ tướng nêu rõ, đối với thị trường lao động, các địa phương cần chú trọng đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực một cách hiệu quả, đón đầu xu hướng dịch chuyển sản xuất để chuẩn bị sớm các kỹ năng cần thiết cho người lao động, thích ứng với nhu cầu thị trường. Bộ LĐTBXH chủ trì xây dựng và triển khai đề án này.

Đối với thị trường đất đai, cần thúc đẩy chuyển đổi đất đai để thích nghi với nhu cầu và mục đích sử dụng đất trước sự biến đổi nhanh chóng và khó lường của thiên nhiên. Nghiên cứu để có cơ sở linh hoạt trong quy hoạch diện tích đất trồng lúa, chuyển đổi diện tích sang các cây trồng cho giá trị kinh tế cao hơn và có khả năng thích ứng với diễn biến của biến đổi khí hậu, đảm bảo thu thập và sinh kế bền vững của người dân. Thủ tướng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì thực hiện, để chuẩn bị thay thế quy hoạch sử dụng đất các tỉnh ĐBSCL đến năm 2020 đã hết thời hạn. Thủ tướng cũng cho biết Luật Đất đai sẽ được lấy ý kiến sửa đổi vào cuối năm nay.

Thủ tướng chỉ  đạo ưu tiên nguồn lực của Nhà nước cho đầu tư cơ sở hạ tầng nhiều hơn nữa cho vùng Đồng bằng Sông Cửu Long; đẩy nhanh việc triển khai và thực hiện các dự  án đã được quy hoạch. Nhấn mạnh, “lộ thông thì tài thông” (tài là tài lực), Thủ tướng đề nghị phát triển cả hàng không, đường bộ, đường thủy và  đường sắt tạo động lực lớn cho phát triển kinh tế vùng đất Chín Rồng.

Thủ tướng đề nghị nghiên cứu cơ chế đánh thuế phát thải để khuyến khích giảm phát thải khí nhà kính, đồng thời qua đó chia sẻ trở lại nguồn thu để hỗ trợ các địa phương bị tác động nặng bởi biến đổi khí hậu.

Biến đổi khí hậu suy cho cùng cũng chỉ là những biến đổi mang tính ngoại sinh, một khi chúng ta vẫn giữ được cội nguồn văn hóa và tinh thần dân tộc, những yếu tố mang sức mạnh nội sinh, chúng ta sẽ phát triển giàu mạnh trên mảnh đất thiêng liêng kế thừa từ cha ông, Thủ tướng nêu rõ.

Nhấn mạnh triết lý phát triển thuận thiên, nhưng Thủ tướng cho rằng, nội hàm của nó không phải là cam chịu, chấp nhận số phận hay sự sắp đặt của tạo hóa. Biến đổi khí hậu không phải là do tự nhiên tạo ra mà chủ yếu là hệ quả của các hoạt động của con người. Do đó, chúng ta phải nhận thức đúng để có các giải pháp và hành động phù hợp.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị lần thứ 3 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Mở đầu Hội nghị, tuyên bố lý do, giới thiệu các đại biểu, Phó Chủ nhiệm VPCP Trần Văn Sơn cho biết: Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17 tháng 11 năm 2017 của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, đề ra tầm nhìn tới năm 2100, mục tiêu tới năm 2050, định hướng phát triển thịnh vượng, an toàn, bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long - vùng đất anh hùng, giàu tiềm năng và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh của đất nước.

Nhằm đánh giá kết quả đạt được sau ba năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP; nhận diện các tồn tại, hạn chế, nguyên nhân; xác định rõ các nhiệm vụ ưu tiên, giải pháp và nguồn lực để đẩy mạnh triển khai  thực hiện Nghị quyết một cách hiệu quả và thực chất trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo tổ chức Hội nghị lần thứ 3 về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các đại biểu dự Hội nghị. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Đồng chủ trì Hội nghị với Thủ tướng Chính phủ có các đồng chí: Đồng chí Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đồng chí Nguyễn Văn Nên, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh; đồng chí Trương Hoà Bình, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; đồng chí Trịnh Đình Dũng, Phó Thủ tướng Chính phủ.

Cùng dự có các đồng chí: Đồng chí Lê Hồng Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Ban Bí thư; đồng chí Lê Minh Khái, Bí thư Trung ương Đảng,  Tổng Thanh tra Chính phủ; đồng chí Trương Mỹ Hoa, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước.

Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Cùng dự hội nghị có các đồng chí Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng là lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương; lãnh đạo các Ban của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội và các Uỷ ban của Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam; lãnh đạo các Bộ, cơ quan Trung ương, các đồng chí Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng là Bí thư của 13 tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long cùng các đồng chí là Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân,  Giám đốc các sở, ban ngành  của các tỉnh.

Tham dự còn có lãnh đạo các cơ quan báo chí, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, viện nghiên cứu, trường đại học; một số hiệp hội; các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước, những chuyên gia tâm huyết, trách nhiệm, đã có nhiều năm nghiên cứu và đóng góp lớn cho sự phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Về phía các vị khách quốc tế, có đại diện của các Đại sứ quán: Lào, Campuchia; Thái Lan; Nhật Bản; Hà Lan; Australia; Vương quốc Anh; Hoa Kỳ; Italy; bà Carolyn Tuck, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới  (WB); ông Fabrice RICHY Giám đốc Cơ quan Phát triển Pháp (AFD); đại diện của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ), Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Việt Nam, Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW), Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI)…

Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Thiết lập nền tảng quan trọng cho ĐBSCL tiếp tục phát triển thịnh vượng

Phát biểu khai mạc Hội nghị, thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình nhiệt liệt chào mừng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh đạo các Ban, Bộ, ngành, địa phương; đại diện các tổ chức quốc tế, Đại sứ quán, cơ quan ngoại giao các nước, đại diện các Viện nghiên cứu, Trường đại học, Hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước tham dự Hội nghị lần thứ 3 của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, ban hành nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp, chương trình và dự án cụ thể nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực để thúc đẩy phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ tính từ năm 2017 đến nay, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120 và ba lần tổ chức Hội nghị về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu. Việc ban hành Nghị quyết số 120 đã đánh dấu bước đột phá lớn trong tư duy, định hình chiến lược phát triển vì tương lai thịnh vượng, bền vững của Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng tổng thể, tích hợp phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng với tầm nhìn dài hạn, tăng cường kết nối phát triển giữa các địa phương trong vùng, bảo đảm tính liên vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm thông qua cơ chế điều phối thống nhất.

Sau hơn ba năm triển khai thực hiện, với sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương trong kiến tạo thúc đẩy, sự tích cực tham gia của doanh nghiệp cùng nỗ lực vươn lên mạnh mẽ của người dân vùng ĐBSCL và sự hỗ trợ hiệu quả của các đối tác quốc tế, chúng ta đã đạt được những kết quả rất tích cực, thiết lập những nền tảng quan trọng cho ĐBSCL tiếp tục phát triển thịnh vượng, cất cánh trong thời gian tới.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ghi nhận, đánh giá cao sự nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long và trân trọng cảm ơn sự hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ, giúp đỡ hiệu quả, chia sẻ những kinh nghiệm quý báu từ các đối tác phát triển, các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Nghị quyết còn nhiều hạn chế, khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, cũng như sự kỳ vọng của chính quyền và nhân dân trong vùng.

Hội nghị lần này được tổ chức trong bối cảnh, đất nước ta bước vào năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021-2025 với thế và lực mới. Đây là Hội nghị có ý nghĩa hết sức quan trọng, một lần nữa khẳng định quan điểm nhất quán và sự quan tâm sâu sắc của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đến sự phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long, đánh giá những việc đã làm được, đặc biệt những kết quả nổi bật trong nhiệm kỳ vừa qua, đặc biệt là sau 3 năm thực hiện Nghị quyết 120; thẳng thắn chỉ rõ những tồn tại, hạn chế,  những bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp cụ thể nhằm mục tiêu vì một Đồng bằng sông Cửu Long thịnh vượng, hiện đại, bền vững về môi trường, đậm đà bản sắc văn hóa truyền thống.

Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình: chúng ta đã đạt được những kết quả rất tích cực, thiết lập những nền tảng quan trọng cho ĐBSCL tiếp tục phát triển thịnh vượng, cất cánh trong thời gian tới. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình đề nghị lãnh đạo một số các bộ, ngành, địa phương trình bày, ngắn gọn các báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết 120 trên các lĩnh vực, tập trung làm rõ một số nội dung.

Một là, đánh giá kết quả thực hiện những nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 120, và nêu lên những tồn tại, hạn chế.

Hai là, xác định những giải pháp tháo gỡ cụ thể để đẩy mạnh triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết, gồm: Chiến lược quy hoạch, dự án, trình cần triển khai đầu tư trong thời gian đó; các giải pháp về cơ chế chính sách, khoa học và cộng nghệ; sự tham gia và định hướng hỗ trợ thực hiện Nghị quyết 120 của các đối tác phát triển; đề xuất, xác định định hướng giải pháp về quy hoạch liên kết vùng và thúc đẩy phát triển kinh tế giữa vùng ĐBSCL với Thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ.

"Chính phủ mong rằng, Hội nghị quan trọng này sẽ tiếp tục thúc đẩy hành động của các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân vùng ĐBSCL cùng với sự hỗ trợ, hợp tác của cộng đồng quốc tế để các nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết và Chương trình hành động tổng thể được triển khai hiệu quả, nhằm phát triển bền vững và thịnh vượng cho vùng đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới", Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình nhấn mạnh và tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ 3 của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021 về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

GS. Võ Tòng Xuân: Cần định hướng tư duy từng vùng, vùng nào trồng cây gì,  từ đó mới kết hợp nông dân với nông dân thành những hợp tác xã và liên kết với doanh nghiệp. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Qua 3 năm tinh thần chuyển đổi mạnh mẽ hơn

GS. Võ Tòng Xuân, hiệu trưởng Đại học Nam Cần Thơ đồng tình với các báo cáo tại Hội nghị. Mặc dù trước đây đã có những chuyển đổi nhưng 3 năm qua, chúng ta thấy rằng tinh thần chuyển đổi mạnh mẽ hơn.

Thứ nhất, tại vùng mặn ven biển, diện tích lúa - tôm tăng nhiều nhưng có tính tự phát. Để bảo đảm an ninh lương thực, Nhà nước đã tập trung đầu tư cho thuỷ lợi. Bây giờ, nhiều tỉnh đã sử dụng kinh phí của tỉnh, giúp cho bà con nông dân làm hệ thống lúa – tôm. Trong mùa mưa thì trồng lúa rất tốt. Khi ít mưa, nước mặn lên, người nông dân nuôi tôm. Việc này đem lại lợi ích gấp 4,5 lần cây lúa.

Tuy nhiên, trong việc chuyển dịch này, tự phát còn nhiều, chưa có đầu tư tổng thể nên việc lợi tức của người nông dân nuôi tôm cũng còn hạn chế. Hiện nay, chúng tôi đang giúp cho dự án của Hà Lan để đẩy mạnh chuyển đổi nuôi tôm hiệu quả, góp phần mang lại kết quả của việc thực hiện Nghị quyết 120 về phát triển bền vững của vùng, về sử dụng đất bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu.

Thứ hai, phong trào chuyển lúa sang trồng cây ăn trái khá nhiều nhưng làm rất lẻ tẻ. Bên cạnh đó, nhiều năm nay, một trong những khó khăn của người nông dân khi chuyển đổi là vấn đề đầu ra. Phải giải quyết đầu ra và không để thương lái hoành hành thì mới đem lại hiệu quả thực sự. Tới đây, tôi nghĩ rằng chúng ta cần định hướng tư duy từng vùng, vùng nào trồng cây gì? Từ định hướng đó, chúng ta mới kết hợp nông dân với nông dân thành những hợp tác xã và liên kết với doanh nghiệp.

Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Quân: Ba thách thức rất lớn đối với Cà Mau trong quá trình phát triển là "Giữ đất, giữ nước, giữ người". Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Giữ đất, giữ nước, giữ người

Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Quân cho biết ba vấn đề được Nghị quyết 120 nhấn mạnh, cũng là ba thách thức rất lớn đối với Cà Mau trong quá trình phát triển đó là: Giữ đất, giữ nước, giữ người.

Giữ đất là phòng chống sạt lở, không để mất đất ven sông, ven biển. Giữ nước là quản lý có hiệu quả nguồn nước phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt của người dân. Giữ người là bảo vệ tính mạng, sự sống và phát triển của con người, hạn chế tình trạng di dân, dịch chuyển lao động đi nơi khác.

Giữ đất của Cà Mau đồng nghĩa với giữ rừng. Với nước biển dâng và biến đổi khí hậu, do lượng phù sa giảm mạnh, rừng ven biển của Cà Mau bị giảm nhanh chóng. Trên nhiều tuyến đê biển Tây đã không còn rừng ven biển.

Để giữ đất, Cà Mau đang thay đổi cách tiếp cận nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu. Cà Mau tiếp cận thu hút phát triển kinh tế biển ven bờ gắn với hệ thống “ đê, kè mềm”, phát triển các dự án điện năng lượng tái tạo, nuôi trồng thủy sản ven bờ gắn với các lớp tạo chắn sóng... Tuy nhiên, các dự án này lại vướng vào mốc giới rừng, do đó, Cà Mau kiến nghị Chính phủ và Trung ương có các chính sách về phát triển rừng phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để vừa giữ đất, giữ rừng và phát triển kinh tế địa phương.

Vấn đề thiếu nước ngọt vào mùa khô và thừa nước ngọt vào mùa mưa đang ngày càng nghiêm trọng ưu tiên của Cà Mau trong những năm tới là tái cấu trúc lại sản xuất nông nghiệp, hình thành các tiểu vùng khép kín gắn với hệ thống thủy lợi nội đồng thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, tích nước ngọt thông qua xây dựng hệ thống ao, hồ nội đồng. Cà Mau cũng đặt nhiều kỳ vọng vào các dự án thủy lợi dẫn nước tới bán đảo Cà Mau…

Hiện Cà Mau có khoảng 1,2 triệu người, trong đó lực lượng lao động hơn 600.000 người. Tuy nhiên, hiện khoảng 200 ngàn người, chiếm khoảng 1/3 lao động của tỉnh đang làm việc ở tỉnh ngoài. Nguyên nhân lớn nhất là Cà Mau chưa có nhiều việc làm chất lượng và có thu nhập tốt. với điều kiện cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, nhất là hạ tầng logistics; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, bài toán thu hút đầu tư của Cà Mau trong những năm qua gặp nhiều khó khăn

Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang Lê Tiến Châu: Biến đổi khí hậu là vấn đề vượt ra ngoài ranh giới hành chính một tỉnh, cần tiếp cận và giải quyết theo vùng. Ảnh VGP/Quang HIếu

Cùng nhìn về một hướng, với nhận thức, mục tiêu chung

Đồng chí Lê Tiến Châu, Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang đồng tình với các ý kiến phát biểu của các đồng chí Bộ trưởng, Lãnh đạo các địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học về những kết quả 3 năm triển khai Nghị quyết số 120 về phát triển bền vững Đồng bằng Sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

Qua 3 năm triển khai Nghị quyết, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, thẳng thắn nhìn nhận, những kết quả đạt được đó vẫn còn ở khá xa so với những mục tiêu tầm cỡ mà Nghị quyết đã đề ra. Nghị quyết 120 hoạch định mục tiêu, định hướng phát triển Khu vực rất đúng đắn theo hướng thuận thiên; đồng thời đề ra nhiều giải pháp đúng, trúng và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Khu vực. Vấn đề nằm ở chỗ, chúng ta chưa thực thi hiệu quả các giải pháp Nghị quyết đã nêu ra. Từ góc nhìn của địa phương, Bí thư Lê Tiến Châu đề xuất một số vấn đề.

Thứ nhất, chúng ta cần thống nhất nhận thức chung rằng phát triển Đồng bằng Sông Cửu Long, thích ứng với biến đổi khí hậu không chỉ là vấn đề của Chính phủ, các Bộ ngành, hay của từng địa phương mà là vấn đề của tất cả địa phương trong Khu vực. Thực tế địa phương cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến liên kết vùng thời gian qua chưa đạt được nhiều kết quả là do một số địa phương đã gặp phải vấn đề “xung đột lợi ích”, địa phương nào cũng muốn bứt phá nên xảy ra tình trạng cạnh tranh giữa địa phương trong khu vực với nhau. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu là vấn đề vượt ra ngoài ranh giới hành chính một tỉnh, cần tiếp cận và giải quyết theo vùng, thông qua hành động tập thể. Do đó, 13 tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long cần nhìn về một hướng, với nhận thức chung, mục tiêu chung từ đó chủ động trong hợp tác, liên kết với nhau với phương châm “muốn đi nhanh thì hãy đi một mình, muốn đi xa thì hãy đi cùng nhau”.

Thứ hai, về nguồn lực, Nghị quyết số 120 ra đời trong bối cảnh Chương trình đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 đã được thông qua; nên thực tế các dự án trọng điểm, liên kết vùng đều gặp vướng mắc về nguồn vốn triển khai, đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến kết quả chưa đạt được như mong muốn. Hiện nay, Chính phủ đang xây dựng Chương trình đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, do đó, kiến nghị Chính phủ ưu tiên hơn đến Khu vực. Khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long cũng phải thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh lương thực cho quốc gia, nên cũng thiệt thòi hơn so với các Khu vực khác trong phát triển kinh tế, nên cũng cần có sự ưu ái, tính toán hợp lý hơn trong phân bổ vốn đầu tư công.

Để thực hiện được mục tiêu Nghị quyết các địa phương phải tận dụng các nguồn lực khác nhau, kể cả ngoài NSNN. Nguồn lực và cũng là lợi thế so sánh lớn nhất của các địa phương chính là đất đai, nhưng hiện nay rất khó phát huy do bị vướng về cơ chế. Do đó, kiến nghị Chính phủ rà soát, sửa đổi lại quy định quản lý đất trồng lúa theo hướng linh hoạt hơn, vừa đảm bảo an ninh lương thực vừa tạo nguồn lực cho các địa phương phát triển kinh tế.

Thứ ba, Nghị quyết số 120 đề ra phương châm thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển đa dạng các lĩnh vực phù hợp với điền kiện tự nhiên, thổ nhưỡng của mỗi khu vực. Đã đến lúc chúng ta cần nghiên cứu lại chính sách an ninh lương thực theo hướng đa dạng hóa các loại cây trồng, vật nuôi để thích ứng với biến đổi khí hậu, tạo ra giá trị trên từng diện tích đất cao hơn, để biến đổi khí hậu không phải là thách thức mà là cơ hội để nông dân thoát nghèo và làm giàu.

Thứ tư, nhiều dự án giao thông trọng điểm của Khu vực đang được Chính phủ dự kiến đầu tư trong giai đoạn 2021 - 2025, đây chắc chắn là cú hích quan trọng giúp phát triển KTXH của Khu vực. Tuy nhiên, kiến nghị Chính phủ tính toán các phương án đầu tư, phương án hướng tuyến các cao tốc để đảm bảo hiệu quả khai thác và hài hòa lợi ích giữa các địa phương trong khu vực. Đồng thời, Bộ GTVT đưa ra lộ trình đầu tư, cam kết tiến độ dự án cụ thể, làm cơ sở các địa phương tính toán đầu tư hệ thống giao thông kết nối, nhằm khai thác tối đa hiệu quả các tuyến cao tốc đi qua địa bàn.

Thứ năm, để phát triển bền vững thì nền giáo dục phát triển là vấn đề tất yếu và cấp thiết. Nhưng bao năm qua, trình độ giáo dục Khu vực là vùng trũng của cả nước và chưa được quan tâm thích đáng; cùng với đó, do điều kiện thiên nhiên ưu đãi, một bộ phận không nhỏ người dân có suy nghĩ ỷ lại, thiếu ý chí quyết tâm làm giàu. Do đó, kiến nghị Chính phủ quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục, đào tạo của Khu vực, điều này có ý nghĩa sống còn, quyết định sự phát triển bền vững của Khu vực.

Thứ sáu, để thích ứng với biến đổi khí hậu, chúng ta cần phải hiểu và dự báo được những gì sẽ xảy ra và hệ quả của nó, để hoạch định chính xác các giải pháp. Do đó, kiến nghị Chính phủ cần có một nghiên cứu mang tầm cỡ quốc tế về tình trạng biến đổi khí hậu của Khu vực, truyền thông sâu rộng đầy đủ kết quả nghiên cứu, để từ đó các địa phương và người nhân có cái nhìn đầy đủ, toàn diện, biện chứng, khoa học, rõ ràng hơn về tình trạng biến đổi khí hậu và hệ quả của nó đối với Khu vực.

Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Nguyễn Thanh Bình:  việc ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn An Giang đã được thực hiện đồng bộ, tập trung hơn, mang lại nhiều kết quả tích cực. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Sợi dây kết nối toàn vùng

Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Nguyễn Thanh Bình chia sẻ trước khi Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/12/2017 của Chính phủ ,các hoạt động ứng phó biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh An Giang nói riêng và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nói chung còn mang tính cục bộ, giới hạn bởi địa giới hành chính, thiếu liên kết và đồng bộ. Nguồn lực đầu tư cho công tác ứng phó biến đổi khí hậu chủ yếu là các giải pháp công trình như xây dựng các kè chống sạt lở, các đập, hồ chứa.

Từ sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP đến nay, việc ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn An Giang đã được thực hiện đồng bộ, tập trung hơn, mang lại nhiều kết quả tích cực. Các giải pháp tổng thể về quy hoạch, tổ chức không gian, cơ cấu kinh tế, liên kết vùng và huy động nguồn lực phát triển cho toàn bộ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh An Giang nói riêng đã được tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, mang tính chiến lược.

An Giang và các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long bước đầu hình thành cơ sở dữ liệu thông tin phát triển kinh tế - xã hội chung cho toàn vùng. Ngoài ra, tỉnh An Giang đã ký kết hợp tác với tỉnh Kiên Giang về hợp tác trong vấn đề quản lý nguồn nước. Nhiều dự án liên kết vùng liên kết An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ và Đồng Tháp đã và  đang thực hiện.

Giai đoạn 2017-2020, Tỉnh An Giang đã thực hiện chuyển đổi từ trồng lúa sang cây rau, màu và cây ăn quả với tổng diện tích trên 25.000 ha. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ  đất trồng lúa sang đất nuôi trồng thủy sản được quy hoạch đến năm 2020 là 4.917 ha để phục vụ Dự án nuôi thủy sản quy mô tập trung áp dụng công nghệ cao.

Các Đề án, Chương trình, đồ án quy hoạch trên địa bàn tỉnh đều được lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu trong định hướng phát triển của từng loại đô thị. Tỉnh đã thực hiện rà soát, chỉnh sửa, bổ sung Quy hoạch không gian phát triển đô thị, dân cư nông thôn, sắp xếp lại dân cư, từng bước di dời nhà ở ven sông, kênh, rạch có nguy cơ sạt lở cao.

Lãnh đạo tỉnh An Giang cũng đưa ra những kiến nghị, đề xuất để giải quyết tình trạng thiếu hệ thống cơ chế, chính sách đầy đủ, cụ thể để các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long cùng thực hiện liên kết. Doanh nghiệp và người dân gặp khó khăn để chuyển đổi sang quy mô sản xuất lớn hơn do hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nguồn ngân sách đầu tư công của tỉnh còn khó khăn, khó thu hút các nguồn đầu tư từ tư nhân trong lĩnh vực biến đổi khí hậu.

Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang Đỗ Thanh Bình:  Quán triệt quan điểm nhất quán về “tôn trọng quy luật tự nhiên, lấy người dân làm trung tâm, chuyển đổi mô hình sản xuất phù hợp với điều kiện từng vùng”. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Bước đột phá lịch sử về tư duy, định hướng chiến lược và khát vọng

Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang Đỗ Thanh Bình đã nhắc lại có bài viết “Đạo lý cho sự phát triển của ĐBSCL” trong quyển sách “Tây Nam Bộ tiến vào thế kỷ 21” của Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong đó nhấn mạnh “Phải tập trung đầu tư, bù lại cho cả giai đoạn đầu tư nhỏ giọt trước đây, đầu tư kịp thời cho ba mũi đột phá về hạ tầng giao thông, về thủy lợi và về dân trí. Ráo riết, quyết liệt lắm để tối thiểu là sau năm 2015, ĐBSCL có đủ điều kiện cất cánh tới phồn vinh, thịnh vượng”.

Từ năm 2010 trở lại đây, ĐBSCL đã và đang phải đối mặt với nguy cơ tác động ngày càng gia tăng do BĐKH cực đoan, khó lường; tình trạng sụt lún đất, xói lở bờ sông, bờ biển, xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt ngày càng nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến toàn vùng,… đỉnh điểm nhất là tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn mùa khô 2015-2016, mặn đã xâm nhập sâu đến 90 km vào các tỉnh/thành ven biển trong vùng, ảnh hưởng trực tiếp khoảng 300.000ha. Trước thực trạng đó, Nghị quyết 120 của Chính phủ ra đời với tập hợp các quyết sách hết sức kịp thời, đánh dấu bước đột phá lịch sử về tư duy, định hướng chiến lược và khát vọng về một vùng ĐBSCL phát triển “bền vững, an toàn, thịnh vượng” vào năm 2100.

Là tỉnh ở hạ lưu sông Hậu và tiếp giáp với biển, chịu ảnh hưởng trực tiếp của chế độ thủy triều biển Tây khiến cho Kiên Giang là một trong những tỉnh dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu. Từ năm 2015 đến nay, biến đổi khí hậu đối với Kiên Giang không còn là dự báo, kịch bản, mà đã được biểu hiện rõ nét bởi sự xâm nhập mặn, sự khan hiếm nước ngọt trong mùa khô và các thời tiết khắc nghiệt ở vùng ven biển cũng như hải đảo vào mùa mưa. Tình trạng sạt lở bờ biển diễn ra nghiêm trọng, nhiều đai rừng phòng hộ ven biển bị sóng đánh trôi,...

Thực hiện Nghị quyết 120 của Chính phủ, tỉnh Kiên Giang đã xây dựng kế hoạch thực hiện với 23 nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, mục tiêu phấn đấu đến năm 2050 trở thành tỉnh có trình độ phát triển mạnh trong khu vực. Qua 3 năm thực hiện, đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ không những về tư duy mà còn là hành động cụ thể của các cấp, các ngành, các địa phương trên địa bàn tỉnh; thực sự đã tạo nguồn cảm hứng cho cộng đồng doanh nghiệp và người dân phát huy tính sáng tạo trong lao động sản xuất, sự chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Quan điểm nhất quán về “tôn trọng quy luật tự nhiên, lấy người dân làm trung tâm, chuyển đổi mô hình sản xuất phù hợp với điều kiện từng vùng” đã được Kiên Giang quán triệt, thực hiện và đạt được những kết quả bước đầu.

Trong giai đoạn 2017-2020, tỉnh đã chuyển chuyển dịch 19.154ha lúa 2 vụ ven biển sang mô hình tôm - lúa, giá trị tăng thêm 35%; nâng cao chất lượng giống, ứng dụng khoa học kỹ thuật, phát huy cơ sở hạ tầng giữ vững sản lượng lúa 4,5 triệu tấn (năm 2020), trong đó lúa chất lượng cao chiếm trên 80%. (3) Sản lượng thủy sản đạt 836.000 tấn, vượt 110% kế hoạch. Nhiều mô hình, sáng kiến mới ra đời, từng bước tạo sinh kế bền vững cho người dân trong bối cảnh mới; điển hình là các mô hình: Trồng lúa mùa chất lượng cao kết hợp nuôi tôm càng xanh… Đặc biệt, trong điều kiện hết sức khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và hạn mặn, nhưng năm 2020, giá trị thu được trênha đất trồng trọt đạt 100 triệu đồng/năm (tăng 22 triệu đồng/ha so với năm 2015), giá trị nuôi trồng thủy sản trên 1 ha đất mặt nước đạt 130 triệu đồng/năm, tăng 35% so với năm 2017,… thu nhập người dân từ 50 triệu đồng/ha, tăng lên 100-130 triệu đồng/ha. Nhờ đó bình quân tốc độ tăng giá trị sản xuất nông-lâm-thủy sản giai đoạn 2017-2020 của tỉnh đạt 3,33%/năm.

Bên cạnh các giải pháp phi công trình, thì các giải pháp công trình có tính chất liên vùng, đa mục tiêu, hạn chế tác động bất lợi của BĐKH là một trong những định hướng chiến lược theo Nghị quyết 120. Tiêu biểu là Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé, đây được xem là công trình thủy lợi có quy mô lớn nhất từ trước đến nay không chỉ trong nước mà cả khu vực Đông Nam Á. Đến nay dù mới chỉ đưa vào vận hành cống Cái Bé đã góp phần bảo vệ sản xuất, sinh hoạt khoảng 20.000 ha của tỉnh Kiên Giang mà không cần phải đắp 134 đập tạm ngay trong mùa khô; kiểm soát được mặn, ngọt không chỉ Kiên Giang mà còn cho một phần tỉnh Hậu Giang. Cùng với hệ thống cống đã và đang được triển khai, xây dựng mới 2 hồ chứa nước, Kiên Giang đã dần cơ bản chủ động được nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Cuối tháng 12/2020, Dự án đường giao thông tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi chiều dài 51km đã hoàn thành đưa vào khai thác, giúp rút ngắn thời gian kết nối giữa các địa phương trong vùng từ 30-60 phút,…

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tác động lan tỏa. Song qua 03 năm thực hiện Nghị quyết 120, Kiên Giang nhận thấy vẫn còn một số khó khăn, thách thức, đó là:Cơ chế liên kết vùng vẫn còn bất cập, trong đó Hội đồng vùng đã được thành lập với cơ chế Phó Thủ tướng Chính phủ là Chủ tịch Hội đồng vùng. Tuy nhiên, thể chế Hội đồng vùng chưa được đề cập trong văn bản quy phạm pháp luật, nên sẽ rất khó thực hiện các chủ trương của Hội đồng vùng.

Việc huy động các nguồn lực cho đầu tư các công trình hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới. Chưa có cơ chế, chính sách thật sự mang tính đột phá để thu hút nguồn lực ngoài ngân sách. Chúng ta bước đầu đã giải quyết có hiệu quả bài toán “thích ứng” nhưng bài toán “chủ động” vẫn còn nhiều khó khăn phía trước; sạt lở bờ sông, bờ biển là vấn đề cấp bách nhưng mới chỉ xử lý cục bộ, chưa có giải pháp tổng thể gắn với sắp xếp lại dân cư ven sông, ven biển.

Hạ tầng giao thông vẫn là “điểm nghẽn” trong phát triển của Vùng. Dịch vụ logistics để phục vụ xuất khẩu nông - thủy sản cho vùng còn rất hạn chế, toàn vùng vẫn chưa có trung tâm logistics được công nhận.

Đồng bằng sông Cửu Long vẫn cần nhiều cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn; đặc biệt là về đất đai, vốn, khoa học công nghệ,… Vì sản xuất nông nghiệp của Vùng có tính đặc trưng riêng so với các vùng kinh tế khác trong nước.

Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong tiếp cận các kịch bản biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, cập nhật thông tin về môi trường, nguồn nước,… phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, thủy sản còn rất thấp; nhất là đối với người dân trong vùng.

Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Từ thực tiễn địa phương, trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang ngày càng diễn biến phức tạp. Đồng chí Đỗ Thanh Bình xin đề xuất, kiến nghị các giải pháp.

Một là, cần phải tiếp tục hoàn thiện thể chế về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với BĐKH, nhất là cụ thể hóa quy định pháp luật có liên quan về các vấn đề như: Hội đồng vùng; cơ chế, chính sách đặc thù cho vùng về huy động nguồn lực, khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa lớn,…

Hai là, chúng ta cần tiếp tục đồng hành, phối hợp chặt chẽ hơn nữa để triển khai có hiệu quả các quyết sách theo Nghị quyết 120; trong đó tôi xin nhấn mạnh vai trò trung tâm của các Bộ, ngành Trung ương trong việc hoàn thiện các quy hoạch, đề án, chương trình, dự án đã được nêu tại Nghị quyết 120; sự tham gia phản biện, góp ý của các nhà khoa học và các tổ chức quốc tế cho sự phát triển bền vững của Vùng.

Ba là, từng địa phương cần xác định rõ hơn những ngành, lĩnh vực trọng tâm trong liên kết vùng, đặc biệt là nông, lâm nghiệp, thủy sản; tài nguyên và môi trường; giao thông vận tải;… nhằm tối ưu hóa thế mạnh, phát huy hết tiềm lực của các tỉnh, thành phố trong vùng, đảm bảo hiệu quả sản xuất về số lượng, chất lượng và đầu ra các sản phẩm; quan tâm kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.

Bốn là, tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, thủy lợi và dịch vụ logistics, đáp ứng yêu cầu phát triển cho vùng.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt: Động lực từ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo cho ĐBSCL. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Là đại biểu phát biểu đầu tiên trong phần thảo luận, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt bày tỏ sự nhất trí cao đối với nội dung các Báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức quốc tế về tình hình thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ.

Về tình hình thực hiện các nhiệm vụ được giao. Bộ KH&CN được giao thực hiện 3 nhiệm vụ chính tại Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ. Trong hơn 3 năm qua, Bộ KH&CN đã huy động đông đảo lực lượng các nhà khoa học trong và ngoài nước tổ chức thực hiện nhiều nhiệm vụ KH&CN từ đặt hàng của các Bộ Tài nguyên và Môi trường; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương vùng ĐBSCL. Các nhiệm vụ KH&CN trên đã triển khai một cách toàn diện, trong đó có: xây dựng cơ sở dữ liệu, phát triển công nghệ dự báo, giám sát hạn hán và xâm nhập mặn, đồng thời đề xuất các giải pháp cụ thể trong ứng phó xâm nhập mặn như chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, quy trình và thời gian canh tác... Đồng thời, các nhiệm vụ KH&CN cũng từng bước cung cấp luận cứ khoa học cho các giải pháp tổng thể về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH và rà soát hệ thống chính sách hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao các thành tựu KH&CN vào thực tiễn.

Về giải pháp để triển khai thực hiện trong Kế hoạch năm 2021 và những năm tiếp theo. Nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp phát triển bền vững ĐBSCL, thích ứng với biến đổi khí hậu, trong thời gian tới, Bộ KH&CN sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành và địa phương triển khai có hiệu quả Chương trình “Khoa học và công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu quản lý tài nguyên và môi trường phục vụ phát triển bền vững vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2025” đã được TTgCP phê duyệt, theo đó, tập trung vào việc thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ KH&CN thiết thực phục vụ phát triển KT-XH vùng trong bối cảnh tác động của BĐKH ngày càng khắc nghiệt.

Trên tinh thần đó, Bộ KH&CN xin kiến nghị một số giải pháp cụ thể nhằm tăng cường việc nghiên cứu, phát triển ứng dụng KHCN, đổi mới sáng tạo vào thực tiễn phát triển bền vững ĐBSCL.

Thứ nhất, đầu tư lắp đặt hệ thống giám sát độ mặn, hiện đại, thông minh để nhanh chóng có thông tin chính xác phục vụ đắc lực công tác dự báo, kịp thời triển khai các biện pháp ứng phó phù hợp với từng thời điểm, từng giai đoạn, nhất là ứng phó với tác động của thời tiết cực đoan trong vùng.

Thứ hai, đẩy mạnh đầu tư ứng dụng và nhân rộng các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đặc biệt vùng không thể chủ động được nguồn nước, thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước, bị xâm nhập mặn sang phát triển nông nghiệp đa dạng (thủy sản - cây ăn quả - cây lúa), đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu.

Thứ ba, tập trung nghiên cứu đề xuất giải pháp KH&CN đảm bảo nguồn nước lâu dài, cấp nước ngọt chủ động và hợp lý cho các vùng khan hiếm nước nhất là các vùng ven biển (như nghiên cứu lắp đặt hệ thống khử nước mặn hiện đại hiệu suất cao; xây dựng hệ thống trữ nước mặt, nước mưa với quy mô khác nhau…).

Thứ tư, sớm đưa vào ứng dụng thực tiễn các kết quả thành công của các nhiệm vụ KHCN về các giải pháp chống sạt lở bờ biển, bờ sông thuộc chương trình KH&CN phục vụ phát triển bền vững vùng TNB. Đề nghị chương trình tiếp tục cứu các giải pháp KH&CN có tính liên vùng, trong đó chú trọng triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng ĐBSCL một cách bền vững thích ứng biến đổi khí hậu.

Thứ năm, đề nghị Thành phố Cần Thơ nghiên cứu việc thành lập Trung tâm Nghiên cứu, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ nhằm đẩy mạnh việc nghiên cứu phát triển, ứng dụng tiến bộ KHCN và ĐMST phục vụ phát triển KT-XH của cả vùng ĐBSCL, trong đó, chú trọng lĩnh vực nông nghiệp, nhất là nông nghiệp công nghệ cao.

Thứ sáu, nhà nước cần đầu tư mạnh cho cho các trường đại học, viện nghiên cứu trong vùng (ĐH Cần Thơ, ĐH An Giang, Viện Lúa ĐBSCL…) để phát huy hiệu quả vai trò chủ thể nghiên cứu mạnh, có thể đồng hành cùng với các DN là trung tâm của của hoạt động ứng dụng KHCN và đổi mới sáng tạo. Liên kết này sẽ tạo ra sức mạnh cộng hưởng lớn, tác động tích cực đến sự phát triển KT-XH của vùng.

Bộ KH&CN sẽ phối hợp chặt chẽ với Thành phố Cần Thơ và các cơ quan, đơn vị liên quan trong quá trình xây dựng và vận hành Trung tâm này.

Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Carolyn Turk: ĐBSCL là minh chứng thể hiện tư duy và cách tiếp cận chuyển đổi của Chính phủ Việt Nam đối với phát triển. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Tiếp cận dài hạn, đa ngành và tích hợp

Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, bà Carolyn Turk cho rằng Nghị quyết 120 thực sự mang tính đột phá, đánh dấu sự thay đổi từ cách tiếp cận mang tính phòng vệ thụ động đối với biến đổi khí hậu chuyển sang hướng tới mô hình “chủ động thích ứng với thiên nhiên”. Nghị quyết đã chỉ ra rằng biến đổi khí hậu và nước biển dâng, sự thay đổi cực đoan về thời tiết và xâm nhập mặn đã trở thành tình trạng bình thường mới của ĐBSCL. Nghị quyết cũng tạo cơ sở để chuyển đổi phát triển của khu vực - từ quan điểm phát triển cấp hộ canh tác quy mô nhỏ và cấp tỉnh sang quan điểm phát triển mang tính liên tỉnh, toàn đồng bằng và xuyên biên giới; từ quan điểm phát triển ngắn hạn theo từng ngành sang cách tiếp cận dài hạn, đa ngành và tích hợp.

Trong giai đoạn 2015-2020, WB đã huy động khoảng 2,2 tỷ USD cho các hoạt động trong khu vực ĐBSCL, hầu hết trong số đó đều phù hợp với Nghị quyết 120.

“ĐBSCL là minh chứng thể hiện tư duy và cách tiếp cận chuyển đổi của Chính phủ Việt Nam đối với phát triển. Đi kèm với kỳ vọng cao là trách nhiệm to lớn để biến tư duy và cách tiếp cận đó thành hiện thực và thành công, không chỉ đối với gần 20 triệu người dân trong vùng đồng bằng, mà đối với cả nước như một nguồn cảm hứng và một hình mẫu cho phát triển vùng. Chúng tôi nhìn nhận và chia sẻ với Chính phủ về những thách thức to lớn cần đối mặt trong quá trình thực hiện Nghị quyết 120 trong thời gian tới. Với tư cách là các Đối tác Phát triển, chúng tôi cam kết tiếp tục hợp tác với Chính phủ, thông qua quan hệ đối tác bền chặt, vì một Đồng bằng sông Cửu Long bền vững, thịnh vượng và thích ứng với biến đổi khí hậu”, bà Carolyn Turk chia sẻ và cam kết “Trong tương lai, WB sẵn sàng huy động thêm kiến thức và nguồn tài chính để thực hiện các tầm nhìn và mục tiêu của Nghị quyết 120”.

Bí Thư Thành ủy Cần Thơ Lê Quang Mạnh kiến nghị Trung ương sớm có giải pháp căn cơ để giải quyết ách tắcvề tuyến vận tải hàng hóa kết nối trực tiếp với thị trường quốc tế. Ảnh: VGP/Đình Nam

Kim chỉ nam cho sự phát triển của ĐBSCL

Đồng chí Lê Quang Mạnh,  Bí Thư Thành ủy Cần Thơ nhấn mạnh Nghị quyết 120 ra đời là bước đột phá lớn, kim chỉ nam cho sự phát triển của ĐBSCL.

Thời gian qua, TP Cần Thơ phối hợp với Bộ KH&ĐT, các ban ngành trung ương và các địa phương quy hoạch tổng thể vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2020, tầm nhìn đến 2050 theo phương pháp tích hợp. Qua đó, tăng cường liên kết, hợp tác một cách thực chất với các địa phương khác để phát huy hiệu quả, sức mạnh tổng hợp của vùng.

Riêng TP. Cần Thơ đã đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và bền vững. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp công nghệ cao.

Bên cạnh đó, chương trình nông thôn mới đã tạo được sự đồng thuận, đoàn kết, trong nhân dân, trở thành phong trào sôi nổi. Đến cuối năm 2019, Thành phố đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới với 100% các xã huyện đạt chuẩn nôn thôn mới.

Cùng với đó, TP. Cần Thơ chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, tập trung các nguồn lực, kể cả các vốn vay ODA để đầu tư các công trình, dự án nâng cấp đô thị, điều tiết nước, nâng cấp hệ thống kè sông, kênh rạch...

Để tiếp tục đẩy mạnh triển khai hiệu quả Nghị quyết 120 trong thời gian tới, Bí thư Thành ủy Cần Thơ Lê Quang Mạnh kiến nghị Chính phủ sớm xem xét, phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn 2050.

Đối với việc tìm đường ra các thị trường lớn cho nông sản của khu vực ĐBSCL chưa được thực hiện nhiều, chưa có tuyến vận tải hàng hóa kết nối trực tiếp với thị trường quốc tế. Về đường hàng không, đến nay, sân bay Cần Thơ vẫn chưa được đầu tư nhà ga hàng hóa và khu logistic hàng không. Cảng quốc tế Cái Cui Cần Thơ có công suất tiếp nhận tàu trọng tải 20.000 tấn nhưng không có hàng hóa thông quan. Do vậy TP. Cần Thơ kiến nghị Trung ương sớm có giải pháp căn cơ để giải quyết vấn đề  này.

Chỉ thị 23 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo nghiên cứu bổ sung 2 tỷ USD tăng thêm cho giai đoạn 2021-2025 để thoàn thành các chương trình, dự án đầu tư của vùng ĐBSCL với cơ chế tài chính cấp phát 100% vốn vay nước ngoài

Bí Thư Thành ủy TP. Cần Thơ Lê Quang Mạnh kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chấp thuận thực hiện theo phương thức cấp phát đối với khoản vay này.

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Chủ động ứng phó và thích ứng linh hoạt

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị đã khái quát và trình bày vắn tắt một số kết quả trọng tâm của ngành Xây dựng trong việc “rà soát và thực hiện quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch đô thị, nông thôn, sắp xếp, bố trí lại dân cư và cung cấp nước sạch cho người dân”.

Ngay sau khi Nghị quyết 120 được ban hành, Bộ Xây dựng đã khẩn trương chỉ đạo hoàn thành đồ án Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Các định hướng phát triển không gian, đô thị và nông thôn trong Quy hoạch này đã được lồng ghép các nội dung chủ động ứng phó và thích ứng linh hoạt với biến đổi khí hậu, hạn chế tối đa các can thiệp không hợp lý của con người vào tự nhiên. Tất cả các hoạt động xây dựng từ Quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị và điểm dân cư, phát triển hạ tầng cũng được định hướng phải phù hợp với hệ sinh thái tự nhiên, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Vùng, đặc biệt là các phân vùng sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp, đảm bảo thực hiện đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trong Hội nghị về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu long cách đây 3 năm, đó là: “không đẩy thách thức trở thành nguy cơ mà chuyển các thách thức trở thành cơ hội và thúc đẩy phát triển”.

Gần đây nhất, Bộ Xây dựng đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phủ phê duyệt Điều chỉnh cục bộ Quy hoạch cấp nước vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây là cơ sở quan trọng để triển khai các dự án cấp nước liên vùng cho người dân trong vùng trong thời gian tới, tiến tới ứng phó chủ động với tình trạng thiếu nước, hạn hán và xâm nhập mặn đang xảy ra với tần suất ngày một nhiều và mức động ngày càng trầm trọng.

Trong thời gian tới, Bộ Xây dựng sẽ tiếp tục tập trung và hoàn thành xây dựng “Định hướng phát triển hệ thống đô thị, nông thôn tại vùng ĐBSCL”, làm cơ sở xây dựng Quy hoạch Vùng ĐBSCL và Quy hoạch Hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Định hướng sẽ hình thành bộ khung, xác định mô hình phát triển, hình thái phát triển của hệ thống đô thị và nông thôn của vùng ĐBSCL; tổ chức hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị và nông thôn vùng ĐBSCL trong bối cảnh mới, đảm bảo hình thành cơ sở, nền tảng để phát triển bền vững, thích ứng với BĐKH; đảm bảo thúc đẩy liên kết vùng, kết nối đồng bộ, hữu cơ giữa đô thị và nông thôn trong Vùng. Đồng thời, sẽ đề xuất các giải pháp nâng cao và phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của hệ thống đô thị và nông thôn vùng ĐBSCL, trong đó xác định được mức độ ưu tiên và việc lựa chọn những vùng đô thị hóa làm động lực cho phát triển, các dự án phát triển đô thị và nông thôn trọng điểm, hạ tầng trọng yếu như đường cao tốc, cảng biển…

Song song với việc rà soát, điều chỉnh, lập mới các loại quy hoạch, đảm bảo đồng bộ, phù hợp và phục vụ tốt nhất thực tiễn, Bộ Xây dựng và các địa phương trong Vùng cũng đã tập trung đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các quy hoạch thông qua các Chương trình, Dự án quan trọng. 

Chương trình nâng cấp đô thị Vùng ĐBSCL tập trung đầu tư nâng cấp đô thị của 6 tỉnh ĐBSCL với số vốn vay 296 triệu USD của Ngân hàng Thế giới. Dự án hiện đã kết thúc vào năm 2018 và đang tiếp tục, đàm phán, thu xếp để triển khai cho 7 tỉnh còn lại.

Chương trình xây dựng nông thôn mới được quan tâm, đẩy mạnh, đến nay 100% các xã vùng ĐBSCL đã được công nhận nông thôn mới.

Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ  ĐBSCL được thực hiện từ năm 2011. Qua hai giai đoạn, Chương trình đã hoàn thành xây dựng được 863 cụm, tuyến dân cư và 119 bờ bao khu dân cư có sẵn, đã đảm bảo cho khoảng 191.000 hộ, với gần 1 triệu người dân vùng ngập lũ.

Dự  án hỗ trợ kỹ thuật “Thoát nước và chống ngập úng tại các đô thị quy mô vừa vùng duyên hải Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu” do Bộ Xây dựng phối hợp cùng Tổ chức hợp tác phát triển Đức (GIZ) triển khai. Trong đó, Giai đoạn 1 nghiên cứu hệ thống cảnh báo thiên tai, lũ lụt sớm và tăng cường công tác quản lý, ứng phó lũ lụt cho các ban ngành liên quan cùng người dân trong vùng ngập lũ; Giai đoạn 2 thực hiện tại các tỉnh An Giang, Kiên Giang và Cà Mau nhằm thiết lập và bổ sung hệ thống cảnh báo lũ sớm và hệ thống đo mực nước tại thành phố Long Xuyên, thành phố Rạch Giá và thành phố Cà Mau và xây dựng dữ liệu liên quan đến ngập úng, đưa ra cảnh báo kịp thời cho người dân địa phương trong trường hợp mực nước dâng cao, đồng thời đã cơ bản hoàn thành nghiên cứu lập quy hoạch thoát nước chống ngập cho các đô thị nêu trên.

Trong thời gian tới, Dự án “Trạm bơm nước thô Cái Bè và hệ thống tuyến ống truyền tải” do Ủy ban nhân dân các tỉnh Tiền Giang, Long An và Bến Tre đề xuất sẽ tiếp tục được các Bộ ngành nghiên cứu, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt để sớm đáp ứng yêu cầu cấp nước an toàn cho người Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.

Qua tập trung thực hiện các định hướng, nhiệm vụ cụ thể của Nghị quyết 120, cùng với tập trung, sự nỗ lực, vào cuộc của Chính phủ, Bộ Xây dựng, các Bộ ngành trung ương và các địa phương trong vùng, các kết quả quản lý nhà nước về xây dựng trong vùng ĐBSCL đã có những chuyển biến tích cực.

Tỷ lệ đô thị hóa tăng lên; chất lượng đô thị trong vùng từng bước được cải thiện, đảm bảo tốt hơn điều kiện sống cho người dân. Toàn Vùng hiện có 174 đô thị gồm: 1 đô thị trực thuộc Trung ương, 02 đô thị loại I thuộc tỉnh, 12 đô thị loại II, 09 đô thị loại III, 23 đô thị loại IV và 127 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hóa toàn Vùng tăng từ 27% (năm 2017) lên trên 31% (năm 2020). Các  đô thị trong vùng đã và đang phát huy vai trò hạt nhân, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của từng tỉnh, trên toàn vùng và góp phần tích cực trong bảo đảm quốc phòng, an ninh tại biên giới Tây Nam tổ quốc.

Công tác đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị được đẩy mạnh. Tổng công suất các nhà máy nước sinh hoạt đô thị vùng ĐBSCL đã đạt khoảng 1,32 triệu m3/ngđ. Tỷ lệ dân cư đô thị được cấp nước sạch trung bình vùng đạt khoảng 89,6% (tăng 1,5% so với năm 2017); tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch trung bình vùng đạt 22,5% (giảm khoảng 1,5% so với năm 2017).

Bộ mặt nông thôn được cải thiện và có bản sắc, 100% các xã trong Vùng đã được công nhận nông thôn mới, góp phần thực chất nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho bà con nông dân.

Nhà ở cho người dân được cải thiện, đặc biệt là người dân khu vực ngập lũ với khoảng 1 triệu người đã được bố trí chỗ ở an toàn, ổn định tại các cụm tuyến, khu vực bờ bao với đồng bộ các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, bảo đảm tránh được nguy cơ lũ lụt và sạt lở và tạo nên các khu dân cư khang trang, văn minh, phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội.

Bên cạnh các kết quả tích cực đạt được trên các mặt trọng tâm của ngành Xây dựng trong phát triển bền vững ĐBSCL, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Nghị nêu lên những kết quả chưa được như mong muốn và còn nhiều thách thức đặt ra cho công cuộc phát triển Vùng.

Cụ thể, tỷ lệ đô thị hóa và tốc độ đô thị hóa của Vùng vẫn thấp hơn nhiều so với trung bình toàn quốc; hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật vẫn còn Vùng còn yếu và thiếu đồng bộ. Việc thu gom, xử lý chất thải rắn, xử lý nước thải chưa có nhiều biến chuyển, tỷ lệ xử lý thấp và hầu hết vẫn đang sử dụng các công nghệ lạc hậu…

Trong khi đó, tình hình BĐKH đang diễn ra ngày càng phức tạp, các hiện tượng thời tiết cực đoan như lũ lụt, hạn hán diễn ra ngày một thường xuyên, kéo theo tình trạng nhiễm mặn, sụt lún nền đất... gây ảnh hưởng ngày một lớn, tác động tiêu cực đến đến cuộc sống người dân. Trên góc độ quản lý nhà nước, một số chính sách có tính chất động lực, an sinh xã hội cho vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đã được xây dựng nhưng cũng chưa đi vào cuộc sống do còn hạn chế nguồn lực thực hiện trong bối cảnh khó khăn ngân sách chung.

Trong thời gian tới, Bộ Xây dựng sẽ tiếp tục dành nguồn lực thích đáng để triển khai các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 120, trong đó tập trung rà soát, điều chỉnh, lập mới , triển khai thực hiện quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị và nông thôn, thích ứng biến đổi khí hậu, quan tâm phát triển đo thị có chất lượng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, bố trí sắp xếp dân cư ở những khu vực thiên tại, sạt lở để đảm bảo cuộc sống an toàn, ổn định cho nhân dân trong vùng, tiếp tục thúc đẩy hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, đảm bảo cung cấp nước sạch, ngập nước an toàn khu vực ĐBSCL, cùng với đó, cũng cây dựng triển khai thực hiện các định hướng, chỉ đạo mới của Đảng, phát triển bền vững của vùng ĐBSCL, tăng cường hỗ trợ các địa phương trong vùng trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng trên địa bàn.

Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể: Giao thông phát triển tới đâu thì kinh tế - xã hội sẽ phát triển theo. Ảnh: VGP/Qiuang Hiếu

Mở đường băng cho vùng đất chín rồng “cất cánh”

Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể khẳng định giao thông được mệnh danh là mạch máu của nền kinh tế. Giao thông phát triển tới đâu thì kinh tế - xã hội sẽ phát triển theo. Giao thông có chức năng đi trước mở đường cho nền kinh tế. Do đó, trong nhiều nhiệm kỳ qua, đặc biệt là trong nhiệm kỳ 2016-2020, Chính phủ đã tập trung nhiều nguồn lực để phát triển GTVT của khu vực ĐBSCL. Trong Nghị quyết 120, Chính phủ cũng nhìn nhận hệ thống GTVT của vùng ĐBSCL còn yếu kém, chưa tương xứng với  tiềm năng và thế mạnh của vùng. Vì vậy, Chính phủ giao Bộ GTVT và các địa phương trong khu vực 2 nhiệm vụ.

Thứ nhất, điều chỉnh lại quy hoạch giao thông vận tải trong vùng và  đặc biệt là xây dựng kế hoạch trung hạn 2021 – 2025 với tiêu chí là sẽ đầu tư nhiều hơn để hoàn chỉnh hệ thống giao thông của vùng.

Thứ hai, tập trung nguồn lực để chỉ đạo, hoàn thành những công trình trọng điểm, dự án đang triển khai trên địa bàn.

Trong ba năm qua, Bộ GTVT đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương để triển khai hai nhiệm vụ này.

Về quy hoạch, đến thời điểm này, Bộ GTVT đã hoàn thành 5 lĩnh vực quy hoạch giao thông. Trong quá trình làm, Bộ GTVT đã phối hợp với 13 tỉnh thành và cũng yêu cầu các địa phương điều chỉnh quy hoạch giao thông địa phương, kết nối với hệ thống giao thông Trung ương để làm sao có được hệ thống GTVT tốt nhất. Sắp tới, Bộ GTVT sẽ trình Chính phủ phê duyệt quy hoạch GTVT của vùng và cả nước nói chung.

“Một điểm mới mang tính đột phá là sau khi nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng vùng ĐBSCL cần phải 1 cảng nước sâu, là một cửa ngõ để đưa hàng hoá của vùng ra thế giới cũng như nhập hàng hoá từ thế giới về vùng thông qua 1 cảng của khu vực. Do đó, chúng tôi mạnh dạn đề xuất quy hoạch cảng nước sâu có thể  đón tàu khoảng 100 nghìn tấn. Chúng tôi sẽ xã hội hoá cảng này bằng cách kêu gọi các nhà đầu tư”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể nhấn mạnh và cho rằng khi có cảng hàng không Cần Thơ và cảng biển này thì khu vực ĐBSCL sẽ có chuyển dịch cơ cấu kinh tế rất tốt, đặc biệt là chuyển một số vùng đất bị nhiễm mặn thành khu vực công nghiệp.

Bộ GTVT đã trực tiếp nhận chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ là tập trung đẩy nhanh tiến độ các dự  án trọng điểm trong vùng. Ba năm quachúng ta đã hoàn thành cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống, đường kết nối trung tâm DBSCL (nối Cao Lãnh – Rạng Sỏi) để hình thành một trục mới từ Cao Lãnh đến Kiên Giang, đem lại thế mạnh cho vùng và tạo điều kiện để phát triển kinh tế. Cùng với đó, Chính phủ cũng giành gần 5000 tỷ đầu tư công để khởi công 3 gói thầu từ Trung Lương – Mỹ Thuận – Cần Thơ. Riêng cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ sẽ  được hoàn thành trong năm 2022. Ngoài ra, Bộ GTVT có một số dự án như: Xây dựng cao tốc nối thành phố Cà Mau - Cần Thơ, và cao tốc nối Châu Đốc – Long Xuyên – Cần Thơ và Sóc Trăng.

Kế hoạch đầu tư công 2021-2025 đối với ngành GTVT tại vùng DBSCL, chúng tôi đã thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư là sẽ đầu tư khoảng 57 nghìn tỷ, so với nhiệm kỳ vừa qua là chỉ 29 nghìn tỷ. Mong rằng các tỉnh cùng với Bộ sẽ cố gắng thực hiện tốt kế hoạch để đến 2025, GTVT của vùng ĐBSCL sẽ có điều kiện phát triển tốt hơn để giúp khu vực chuyển đổi và phát triển bền vững.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường: Nghị quyết 120 đã giúp khăc phục khó khăn, biến nguy thành cơ. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Chuyển hướng thuận thiên đúng hướng, hiệu quả

Báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết, theo nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ưu tiên tập trung tổ chức triển khai 4 lĩnh vực then chốt: Xây dựng Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu gắn với xây dựng nông thôn mới vùng ĐBSCL; Phát triển thủy lợi vùng ĐBSCL; Phòng, chống xói lở bờ sông, bờ biển, phòng chống thiên tai; Nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu của vùng.

Bộ đã phối hợp với 13 tỉnh thành ĐBSCL xây dựng xong các đề án, chương trình cho các lĩnh vực này, được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn, đang tập trung thực hiện.

Ngoài các nội dung trong Báo cáo, Bộ trưởng phân tích thêm một số các yếu tố thực tế mà ĐBSCL phải đối mặt. Từ đó, Nghị quyết 120 nêu rõ tinh thần thuận thiên để tổ chức đời sống và sản xuất; biến nguy thành cơ cho phát triển, tập trung các nguồn lực từ phía Nhà nước, doanh nghiệp, người dân.

Bộ trưởng khẳng định, cơ cấu nông nghiệp đã chuyển dịch tích cực, nếu trước kia chúng ta xác định các sản phẩm trụ cột của ĐBSCL gồm "lúa gạo, thủy sản, trái cây" thì vừa qua để thích ứng với BĐKH, chúng ta phải khai thác thế mạnh theo ưu tiên "thủy sản, trái cây, lúa gạo".

Trước Nghị quyết 120, trong 3,2 triệu ha đất nông nghiệp của vùng, có 1,82 triệu ha đất lúa, 860 nghìn ha thủy sản, 385 nghìn ha cây ăn trái. Sau Nghị quyết, diện tích trồng trái cây tăng lên 450 nghìn ha, thủy sản đã lên trên 900 nghìn ha, diện tích lúa giảm còn 1,7 triệu ha, diện tích lúa 3 vụ cũng giảm.

Bộ trưởng nhắc tới con số, năm 2016, xuất khẩu nông sản của toàn vùng đạt 7 tỷ USD, nhưng năm 2020 đã là 8,8 tỷ USD, cho thấy việc chuyển hướng thuận thiên không những đúng hướng mà còn hiệu quả. Cấp hộ, cấp doanh nghiệp chuyển động, 13 tỉnh thành chỉ đạo rất quyết liệt.

Cũng theo Bộ trưởng, Nghị quyết 120 ban hành trong bối cảnh cực kỳ khó khăn về nguồn lực nhưng Chính phủ đã tập trung cao độ, như bố trí 10 nghìn tỷ đồng để xử lý 119km bờ biển và một số khu vực ven sông, một số công nghệ mới nhất được đưa vào sử dụng.

Về thủy lợi, đã kết hợp giữa giải pháp cứng và mềm, chỗ nào đủ ngọt thì trồng lúa, vùng nước lợ mặn thì nuôi trồng thủy sản trên cơ sở hệ thống thủy lợi được chăm lo. Với 28 nghìn tỷ đồng đầu tư cho thủy lợi trong vùng, hàng loạt công trình lớn chỉ trong 3 năm qua đã được đưa vào sử dụng, 300 nghìn ha đất nông nghiệp được chủ động nguồn nước từ các công trình này, chưa kể một loạt các công trình của địa phương.

“Chính phủ, Thường trực Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cực kỳ quyết liệt, chưa có bao giờ bước vào mùa khô mà Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo xử lý như nhiệm kỳ này. Đặc biệt, 13 tỉnh, bà con nông dân và cộng đồng doanh nghiệp đã tham gia hiệu quả vào  Nghị quyết”, Bộ trưởng nói.

Tuy nhiên, thách thức tới đây sẽ còn gian nan hơn. Bộ trưởng kiến nghị sắp tới, cần cả hệ thống chính trị tập trung thực hiện các nhiệm vụ cho đồng bằng. Ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục thực hiện Nghị quyết 120 một cách hiệu quả.  

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: Tiếp tục ưu tiên đầu tư cho vùng ĐBSCL. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Huy động thêm hàng trăm nghìn tỷ đồng cho ĐBSCL

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng
đánh giá ĐBSCL giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là trụ đỡ, bảo đảm an toàn, an ninh lương thực, xuất khẩu nông sản, mà còn là vùng một động lực, nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua ĐBSCL đang phải đối diện với nhiều nguy cơ và thách thức của biến đổi khí hậu, các hoạt động phát triển của thượng nguồn, mặt trái từ phát triển kinh tế xã hội chưa bền vững, khai thác sử dụng tài nguyên với cường độ cao, gây ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng, tỷ lệ di dân tự do tăng cao,..

Để giải quyết vấn đề nêu trên, nhằm tạo điều kiện cho ĐBSCL phát triển nhanh và bền vững, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 120. Đây là một nghị quyết hết sức quan trọng và có ý nghĩa cho sự phát triển của Vùng. Tại Nghị quyết số 120 của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao thực hiện 3 nhiệm vụ.

Về xây dựng Hội đồng vùng và cơ chế điều phối vùng, trên cơ sở kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 825 ngày 12/6/2020 về thành lập và Quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL giai đoạn 2020-2025 để xem xét, quyết định các vấn đề lớn của Vùng, với Chủ tịch Vùng là một Phó thủ tướng, một số Bộ trưởng là phó chủ tịch và 13 chủ tịch các tỉnh trong vùng là thành viên. Hội đồng Vùng có chức năng chính là đưa ra được những giải pháp mang tính chiến lược, giải quyết được các thách thức của Vùng để giúp vùng ĐBSCL phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu và người dân trong Vùng có cuộc sống hạnh phúc, thịnh vượng. Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức triển khai quy hoạch vùng sau khi được phê duyệt, bảo đảm tính hiệu quả trong công tác điều phối, liên kết, giải quyết các vấn đề có tính liên ngành, liên tỉnh.

Trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ kiến nghị Chủ tịch hội đồng Vùng tổ chức họp Hội đồng Vùng để cụ thể hóa việc triển khai thực hiện quy hoạch vùng, việc sử dụng nguồn lực, phân bổ nguồn lực, xây dựng danh mục dự án có tính lan tỏa, động lực, các dự án đường ven biển của Vùng.

Về công tác quy hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương, 13 địa phương vùng ĐBSCL, Ngân hàng thế giới và đơn vị tư vấn nước ngoài tổ chức nhiều hoạt động lấy kiến rộng rãi, nhất là ý kiến các chuyên gia trong và ngoài nước am hiểu vùng ĐBSCL. Trên cơ sở tiếp thu các ý kiến góp ý có tính định hướng và xác đáng đối với quy hoạch Vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thiện báo cáo quy hoạch, báo cáo đánh giá môi trường chiến lược và các tài liệu liên quan khác. Bản quy hoạch đã thể hiện nhiều đổi mới mang tính đột phá tầm chiến lược về định hướng, tư duy phát triển bền vững, liên ngành, liên vùng, thích ứng với biến đổi khí hậu, bám sát các quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 120.

Thứ nhất, quan điểm lập quy hoạch lấy yếu tố “con người” làm trung tâm để phát triển Vùng ĐBSCL thành “Nơi sống tốt” khi nhìn từ bên trong vùng và “Nơi đáng đến” khi nhìn từ ngoài vùng; lấy “thích ứng” với biến đổi khí hậu là yêu cầu tất yếu; coi tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi; đa dạng về văn hoá cũng như hoạt động kinh tếkhông để ai bị bỏ lại trong quá trình phát triển.

Thứ hai, Quy hoạch định hướng phân vùng sinh thái nông nghiệp và xác định ranh giới ngọt - mặn - lợ theo hướng thuận thiên có kiểm soát, để chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp hài hoà với điều kiện tự nhiên môi trường, phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái nông nghiệp nhằm tăng tối đa giá trị và hiệu quả kinh tế nông nghiệp.

Thứ ba, phát triển vùng thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao trên cơ sở phát triển hệ thống 8 trung tâm đầu mối về nông nghiệp và các hành lang kinh tế để nâng cao giá trị, hiệu quả của từng khâu trong chuỗi giá trị nông nghiệp.

Thứ tư, tập trung phát triển công nghiệp theo hướng bền vững, thân thiện môi trường, trong đó công nghiệp chế biến là ngành mũi nhọn; phát triển dịch vụ đa dạng, ứng dụng công nghệ cao với hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu và tăng cường kết nối nội, ngoại vùng. Xây dựng hệ thống đô thị thông minh, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng, gắn kết hợp với các trung tầm đầu mối về nông nghiệp.

Thứ năm, tập trung nguồn đầu tư phát triển hạ tầng để đi trước một bước, nhằm tạo nền tảng cho sự phát tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững của vùng. Ưu tiên phát triển hạ tầng có ý nghĩa quan trọng cấp quốc gia, cấp vùng như giao thông, năng lượng, và kết cấu hạ tầng phục vụ việc chuyển đổi mô hình phát triển của Vùng.

Thứ sáu, cải thiện hạ tầng cấp nước theo hướng coi nước mặn, nước lợ là một nguồn tài nguyên bên cạnh nước ngọt, với trọng tâm là khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi xâm nhập mặn và hạn hán; lấy nước mặt từ vùng nước mặt ngọt vĩnh viễn; giảm dần và tiến tới dừng sử dụng nước ngầm để làm chậm tốc độ sụt lún đất; tăng cường nguồn trữ nước ngọt để cung cấp đến các khu vực thiếu nước phục vụ tốt nhất cho sản xuất và sinh hoạt.

Thứ bảy, thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng gia tăng hiệu quả và giá trị; năng lượng tái tạo, kinh tế số, đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn… là tương lai của ĐBSCL. Thay thế dần các nhà máy nhiệt điện than bằng các nhà máy điện sử dụng khí thiên nhiên/LNG và năng lượng tái tạo (mặt trời, gió…), trong đó, chú trọng quy trình xử lý chất thải vùng với lượng chất thải thu gom từ nhiều tỉnh để đạt được quy mô hiệu quả và áp dụng phương pháp đốt rác thanh năng lượng một cách hiệu quả và thân thiện với môi trường.

Thứ tám, khoanh vùng quản lý, bảo tồn và khai thác hợp lý những di sản văn hóa, tín ngưỡng quan trọng và chú trọng bảo tồn hệ sinh thái và môi trường. Tái tạo hệ thống rừng ngập mặn.

Đến nay, Báo cáo Quy hoạch vùng đang ở bước cuối trình Hội đồng thẩm định thông qua. Cùng với quy hoạch vùng, toàn bộ 13/13 địa phương trong vùng đang khẩn trương triển khai lập quy hoạch tỉnh nhằm cụ thể hóa quy hoạch vùng trong bối cảnh tổng thể, liên kết, đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Theo kế hoạch đã được phê duyệt, dự kiến đến hết năm 2022, toàn bộ địa phương trong vùng sẽ hoàn thành việc lập, thẩm định, phê duyệt, công bố quy hoạch tỉnh.

Về huy động nguồn lực, để tiếp tục ưu tiên đầu tư cho vùng ĐBSCL, trên cơ sở kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Thường vụ quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 973 ngày 08/7/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 26 ngày 14/09/2020 về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025, trong đó quy định các tiêu chí tính điểm của Vùng ưu tiên cao hơn các Vùng khác trong cả nước.

Trong giai đoạn 2021-2025, tổng số vốn ngân sách nhà nước dự kiến hỗ trợ cho các dự án trên địa bàn do địa phương quản lý dự kiến đạt khoảng 266 nghìn tỷ đồng, tăng 20% so với giai đoạn 2016-2020, trong đó vốn ngân sách đối ứng địa phương là khoảng 162.000 tỷ đồng. Ngoài ra, vốn ngân sách nhà nước đầu tư qua một số Bộ như Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế... để triển khai các công trình dự án trong Vùng đạt khoảng 121,6 nghìn tỷ đồng. Tổng số vốn NSNN đầu tư dự kiến giai đoạn 2021-2025 của Vùng khoảng 388 nghìn tỷ đồng. Với số vốn được bố trí như trên, sẽ hoàn thành một số công trình trọng điểm của vùng như: thông tuyến cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, Cần Thơ - Cà Mau; các tuyến đường giao thông có tính chất liên kết vùng và một số tuyến quốc lộ trong vùng.

Riêng đối với nguồn vốn ODA, để bổ sung tăng thêm 2 tỷ USD trong giai đoạn 2021 - 2025 cho vùng ĐBSCL theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại chỉ thị 23/CT-TTg, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới nghiên cứu, xây dựng Báo cáo đề xuất Khoản hỗ trợ ngân sách có mục tiêu phát triển bền vững vùng ĐBSCL, quy mô dự kiến 1,05 tỷ USD. Với quy mô vốn như vậy, sẽ hoàn thành được các công trình: đường ven biển đối với các tỉnh có biển từ Tiền Giang đến Kiên Giang; hồ trữ nước ngọt gắn với hạ tầng thủy lợi phục vụ liên kết sản xuất vùng tứ giác Long Xuyên, một số công trình giao thông liên tỉnh có tính lan tỏa,... Tuy nhiên, số vốn trên mới đáp ứng khoảng 50% nhu cầu của các địa phương, chưa thể kết nối liên tục các tuyến ven biển, còn nhiều nơi như Ben Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau vẫn phải đi phà hoặc vòng sang cầu hiện hữu đã quá tải.
Do đó, để có thêm nguồn lực ngoài khoản vay của Ngân hàng Thế giới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã làm việc và nhận được nhiều đề xuất cung cấp khoản vay ưu đãi và viện trợ không hoàn lại của các đối tác phát triển.

Hiện nay, Hồ sơ đề xuất khoản hỗ trợ ngân sách có mục tiêu cho Vùng ĐBSCL đã được Bộ Kế hoạch và  Đầu tư hoàn thiện và đã nhận được sự đồng thuận cùa các Bộ và 13 tỉnh trong vùng. Tuy nhiên, việc trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương tiếp nhận khoản hỗ trợ ngân sách nêu trên còn gặp một số vướng mắc, do chưa nhận được ý kiến đồng thuận của Bộ Tài chính. Theo ý kiến của Bộ Tài chính, các dự án tại các địa phương sử dụng vốn vay tại Khoản hỗ trợ ngân sách trên thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương, nên không thể cấp phát 100% vốn vay, mà địa phương phải vay lại theo Nghị định số 97 về cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận thấy, các địa phương vùng ĐBSCL đa phần là các địa phương khó khăn, ít có khả năng vay lại, các dự án dự kiến triển khai là các dự án hạ tầng thi£t yếu, đặc biệt quan trọng, nhưng không có khả năng thu hồi vốn, nên chưa có thể áp dụng cơ chế tại Nghị định số 97 của Chính phủ. Như vậy, cần một cơ chế đặc thù, vượt trội cho nguồn vốn này để thực hiện được mục tiêu như kết luận tại các cuộc họp trước đây của Thủ tướng Chính phủ với vùng ĐBSCL.

Ngoài ra, trong thời gian tới đây, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tích cực làm việc với các nhà tài trợ, nhất là các nhà tài trợ đang hiện diện tại Hội nghị này để huy động đủ số vốn 2 tỷ USD mà Chính phủ đã cam kết bổ sung thêm cho vùng ĐBSCL.

Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 120 của Chính phủ, chúng ta đã  đạt được một số kết quả quan trọng, nhưng mục tiêu và nhiệm vụ tiếp theo vẫn còn rất thách thức, đòi hỏi sự đồng thuận và quyết tâm cao của các bộ, ngành, địa phương, sự chỉ đạo quyết liệt và những quyết định chính xác, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng kiến nghị một số nội dung có ý nghĩa rất quan trọng đối với vùng ĐBSCL.

Một là, về nguồn vốn ODA, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, đồng ý tiếp nhận 2,0 tỷ USD hỗ trợ thêm cho vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2025, tăng thêm 950 triệu USD ngoài khoản 1,05 tỷ USD mà Ngân hàng Thế giới đã cam kết, theo cơ chế đặc thù, vượt trội và thực hiện cơ chế cấp phát 100% cho các địa phương trong vùng để hoàn thiện khép kín toàn bộ tuyến đường ven biển, hoàn thành các cầu lớn kết nối các địa phương trong vùng, các dự án thuỷ lợi liên kết vùng, có tính lan toả, tập trung phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn và thích ứng với biến đổi khí hậu và một số trục giao thông động lực của Vùng.

Hai là, về công tác quy hoạch, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ giao Chủ tịch Hội đồng thẩm định quy hoạch vùng xem xét, sớm tổ chức thẩm định Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 trong tháng 4/2021, làm cơ sở cho việc lập quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch nông thôn, quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành trên địa bàn vùng.

Ba là, về phân bổ nguồn lực, các địa phương cần ưu tiên nguồn lực và bố trí nguồn vốn đối ứng để triển khai các dự án có tính chất kết nối liên vùng, liên tỉnh, có tác động lan tỏa; mở rộng không gian phát triển, tạo quỹ đất cho sản xuất kinh doanh, kết nối tuyến giao thông hành lang ven biển; ưu tiên cho các dự án giao thông đường ven biển, nhằm kết nối khép kín tối đa tuyến đường ven biển của vùng ĐBSCL.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà báo cáo tổng hợp 3 năm thực hiện Nghị quyết 120. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Mức tăng trưởng ấn tượng sau khi có nghị quyết thuận thiên

Báo cáo tổng hợp 3 năm thực hiện Nghị quyết, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà nêu rõ: Qua hơn 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, phát triển thuận thiên đã được thấm nhuần trong nhận thức, tư duy và hành động của các cấp, ngành, địa phương, được các chuyên gia, nhà khoa học, người dân và doanh nghiệp tích cực hưởng ứng, các đối tác quốc tế ủng hộ, hỗ trợ hiệu quả. Dù thời gian thực hiện chưa dài nhưng chúng ta đã đạt được một số kết quả rất quan trọng, thiết lập được những nền tảng để ĐBSCL tiếp tục phát triển thịnh vượng, nổi bật là:

Một là, kiến tạo thể chế, chính sách thúc đẩy phát triển bền vững theo một tổng thể thống nhất, tạo sức mạnh tổng hợp

Cơ chế chính sách được xây dựng, bổ sung hoàn thiện, trong đó ưu tiên một số lĩnh vực theo thế mạnh của vùng. Các nút thắt trong chính sách đất đai, đầu tư được tháo gỡ, liên kết được tăng cường để tạo chỗ đứng cho các sản phẩm trên thị trường thế giới.

Nhiệm vụ lập Quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050; Quy hoạch xây dựng; Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với BĐKH... được phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện.

Nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi được ban hành, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chuyển đổi quy mô lớn, tái cơ cấu nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao; phát triển giao thông, năng lượng tái tạo…

Hai là, chủ động thích ứng nhờ nâng cao năng lực quan trắc, giám sát, dự báo thời tiết, cảnh báo thiên tai; chuyển đổi sản xuất, kinh doanh dựa vào các lợi thế tự nhiên lấy con người làm trung tâm

Công tác điều tra, khảo sát, cảnh báo, dự báo về môi trường, khí hậu được tăng cường theo chủ trương nương theo quy luật tự nhiên, thể hiện đậm nét ở những mặt sau đây:

Mạng lưới quan trắc, giám sát khí hậu, thời tiết được tăng cường, chất lượng dự báo khí tượng thủy văn, cảnh báo sớm thiên tai được nâng cao phục vụ thực hiện các giải pháp thích ứng, trong đó đã chú trọng các giải pháp phi công trình như: tích nước, chuyển đổi thời vụ canh tác, cơ cấu lại cây trồng-vật nuôi… Nhờ đó đã hạn chế được tối đa tác động xấu ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất. [Riêng đợt hạn mặn 2019-2020, nhờ chủ động dự báo chính xác, kịp thời chuyển đổi cơ cấu sản xuất nên mặc dù mức độ khắc nghiệt và diện rộng hơn đợt hạn mặn lịch sử năm 2015-2016 nhưng đã giảm được 90% diện tích lúa bị ảnh hưởng, người dân được mùa, gạo được giá].

Chuyển đổi kinh tế được đẩy mạnh nương theo thế mạnh tự nhiên; hình thành mạng lưới sản xuất thông minh, tập trung quy mô lớn, chuyên canh gắn với chế biến, tiêu thụ theo chuỗi giá trị, tạo ra các thương hiệu nổi tiếng thế giới như gạo ST25.

Công nghiệp tập trung phát triển công nghiệp chế biến, công nghiệp xanh, ít phát thải, năng lượng tái tạo. Xúc tiến thương mại được đổi mới, đáp ứng được diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế, góp phần thúc đẩy thương hiệu, ngành hàng tại các thị trường xuất khẩu.

Các lợi thế sinh thái, văn hóa, lịch sử được bảo tồn, phát huy, thúc đẩy kinh tế du lịch, dịch vụ. Chỉ riêng năm 2019, khách du lịch ước đạt 47 triệu lượt, khách lưu trú ước đạt 13,5 triệu lượt, thu đạt hàng chục nghìn tỷ đồng.


Ba là, định hình không gian phát triển, quy hoạch hạ tầng kết nối nội vùng, với thành phố Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ được đẩy mạnh.

Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo đầu tư thực hiện nhiều dự án, công trình giao thông trọng điểm với tổng mức đầu tư khoảng 89 nghìn tỷ đồng, trong đó 14 dự án đã hoàn thành, 14 dự án đang triển khai, 03 dự án đang chuẩn bị triển khai.

Nhiều dự án thủy lợi, đê ngăn mặn, kiểm soát triều cường, sóng cao, hạ tầng thủy sản, cảng cá, khu neo đậu; các cụm, tuyến dân cư, xử lý rác thải, nước thải sinh hoạt và cải tạo cảnh quan được quan tâm đầu tư đảm bảo người dân được sống an toàn, ổn định. Công trình Cống Cái Bé, theo đánh giá của chuyên gia, đã bước đầu kiểm soát mặn cho khoảng 20 nghìn ha đất nông nghiệp của tỉnh Kiên Giang, giảm chi phí xây dựng khoảng 120 đập tạm sau cống vừa cải thiện môi trường, không ảnh hưởng giao thông thuỷ và ứ đọng nước.

Hội đồng Điều phối vùng được thành lập, giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều phối, kiểm tra, giám sát việc thực hiện liên kết vùng, tháo gỡ được những rào cản và giải phóng hiệu quả nguồn lực đầu tư.

Bốn là, khơi thông, thúc đẩy nguồn lực đầu tư công làm hạt nhân, dẫn dắt đầu tư của khối doanh nghiệp và cộng đồng quốc tế

Vốn đầu tư được chỉ đạo, ưu tiên bố trí cho các dự án có tính hạt nhân, đa mục tiêu giải quyết các vấn đề cấp bách về dân sinh.

Tổng số vốn ngân sách nhà nước đầu tư qua địa phương đạt khoảng 220 nghìn tỷ đồng chiếm khoảng 16% so với cả nước, trong đó ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu là 80 nghìn tỷ. Trung ương cũng đã bổ sung ngoài kế hoạch trung hạn 2,5 nghìn tỷ để xử lý các điểm sạt lở cấp bách nguy hiểm.

Nguồn vốn cân đối ngân sách địa phương đạt 114 nghìn tỷ. Nguồn vốn ODA đạt 22 nghìn tỷ. Thu hút FDI đạt trên 14 tỷ USD.

Nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi được ban hành, khuyến khích thu hút đầu tư.

Năm là, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, truyền thông nâng cao nhận thức, đào tạo, chuyển đổi ngành nghề, tăng cường hợp tác quốc tế.

Về tổng thể, sau hơn 03 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, có thể khẳng định vùng ĐBSCL đã chuyển mình mạnh mẽ với những tiến bộ trong cả tư duy lẫn hành động, chuyển từ bị động sang chủ động thích ứng với tác động của BĐKH, coi lũ, nước mặn, nước lợ là tài nguyên để phát triển kinh tế; sinh kế, đời sống của nhân dân được từng bước cải thiện; bức tranh phát triển ĐBSCL ngày càng được điểm tô bằng nhiều gam màu tươi sáng.

Hiệu quả của việc phân vùng, chuyển đổi sản xuất theo phương châm thuận thiên đã từng bước được chứng minh. Tăng trưởng GDP luôn ở mức cao trước khi xảy ra đại dịch Covid-19 [trong hai năm liên tục 2018 và 2019 đều đạt mức tăng trưởng ấn tượng khoảng 7,3%].

Đời sống văn hóa, tinh thần từng bước được nâng cao; các giá trị văn hóa truyền thống của vùng từng bước được bảo tồn, phát huy, khai thác hiệu quả phục vụ người dân và du khách quốc tế.

Các loại bệnh dịch được giám sát, khống chế và có xu hướng giảm; tỷ lệ hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh tăng qua từng năm.

Kết quả của Nghị quyết một lần nữa khẳng định tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước, phù hợp với bối cảnh và xu thế phát triển trong nước, quốc tế, khẳng định mạnh mẽ quyết tâm chính trị của Chính phủ về ứng phó với BĐKH toàn cầu trên cơ sở kết hợp giữa sáng tạo, tri thức bản địa với khoa học và công nghệ; sự vươn lên mạnh mẽ và khát vọng phát triển của người dân.

Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Nói về những thách thức lớn mà ĐBSCL đang phải đối mặt, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết BĐKH, thiên tai đang ngày càng diễn ra nhanh, phức tạp và sẽ tiếp tục khó lường, khó dự báo do tính thất thường, cực đoan, đặc biệt là những tác động ngắn hạn. Khi các nỗ lực toàn cầu, đặc biệt là giảm phát thải khí nhà kính, vẫn chưa đạt được như kỳ vọng; hoạt động khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn sông Mê Công ngày càng phức tạp; cơ chế điều phối tiểu vùng khó phát huy được hiệu quả, ĐBSCL sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều tác động bất lợi: thiếu cát, thiếu màu, thiếu nước sẽ còn tiếp diễn nghiêm trọng.

Nghị quyết mới được triển khai thực hiện hơn 03 năm, trong khi mục tiêu, tầm nhìn mang tính chiến lược, dài hạn, cần có thời gian và nguồn lực để đảm bảo triển khai, cụ thể hoá thành những hành động, nhiệm vụ cụ thể.

Những thách thức đó đòi hỏi chúng ta phải hành động nhanh hơn, nhất là trong 5 năm tới, trong đó chủ trương phát triển thuận thiên, lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, cần phải được quản lý tổng hợp trên toàn lưu vực cần tiếp tục được quán triệt trong mọi quyết sách, cụ thể là:

Thứ nhất, về thể chế, cơ chế chính sách:

Phát huy vai trò Hội đồng Điều phối vùng với sự tham gia tích cực hiệu quả của các địa phương trong vùng; tăng cường rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, đặc biệt là huy động nguồn lực thông qua đối tác công - tư, tập trung đất đai phục vụ chuyển đổi quy mô lớn, quy hoạch các khu vực trồng lúa chuyển đổi mục đích linh hoạt để chủ động trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất phù hợp với điều kiện tự nhiên từng năm.

Sớm ban hành Quy hoạch vùng làm căn cứ để triển khai kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các tỉnh; triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp phát triển các tỉnh, thành phố theo các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước.

Thứ hai, ưu tiên bố trí nguồn lực thực hiện các dự án đa mục tiêu, kết nối vùng phục vụ sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân

Khẩn trương bổ sung nguồn vốn thực hiện Chương trình hỗ trợ chính sách phát triển vùng; nguồn vốn đầu tư thông qua các định chế tài chính, tổ chức tín dụng bao gồm Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam.

Ưu tiên thực hiện các dự án hạ tầng đa mục tiêu về thủy lợi, cấp nước sạch, thoát nước, giao thông, ứng phó với BĐKH; kết nối vùng, liên vùng thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, phát triển thương mại, tạo chuỗi giá trị. Cụ thể là:

- Về giao thông: nâng cấp hệ thống giao thông đường bộ trong vùng và kết nối với thành phố Hồ Chí Minh, Đông Nam Bộ. Tập trung phát triển có trọng điểm hệ thống giao thông đường bộ, thủy nội địa, nhất là vùng ven biển để phát triển kinh tế biển theo hướng thuận thiên.

- Về thủy lợi: kiểm soát lũ, xâm nhập mặn, cấp ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp; hệ thống trữ ngọt cung cấp nước sinh hoạt phục vụ người dân khu vực thường xảy ra xâm nhập mặn; đầu tư xử lý sạt lở bờ sông và củng cố đê biển. [tập trung hoàn thành các dự án hệ thống thủy lợi: Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1; Bắc và Nam Bến Tre; tiểu vùng II, III, V Cà Mau; Dự án Tha La, cống Trà Sư].

- Về xây dựng: phát triển hạ tầng đô thị xanh thông minh, thích ứng với BĐKH; cấp nước an toàn...; nâng cấp mạng lưới điện nông thôn.

Thứ ba, tăng cường điều tra cơ bản, năng lực quan trắc, dự báo, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu

Thứ tư, thúc đẩy chuyển đổi quy mô lớn, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu hợp lý

Thứ năm, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, công nghệ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu lao động và tăng cường hợp tác quốc tế

Thứ sáu, tổng kết những bài học kinh nghiệm để nhân rộng cho các vùng sinh thái khác trong cả nước, đóng góp mô hình phát triển bền vững cho thế giới.

Phó Chủ nhiệm VPCP Trần Văn Sơn tuyên bố lý do tổ chức Hội nghị, giới thiệu các đại biểu. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Theo chương trình, Hội nghị sẽ xem phim tư liệu về kết quả đạt được trong việc thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ: “Phát triển thuận thiên kiến tạo thịnh vượng cho Đồng bằng sông Cửu Long”.

Tiếp đến, Hội nghị sẽ nghe Báo cáo đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP, đề xuất giải pháp thúc đẩy thực hiện Nghị quyết trong thời gian tới; 04 báo cáo chuyên đề và các tham luận.

Cách đây hơn 3 năm, cũng tại Cần Thơ, hội nghị đầu tiên về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu được tổ chức. Tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định quan điểm nhất quán của Chính phủ về phát triển ĐBSCL: Tôn trọng quy luật tự nhiên, chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thuận thiên là chính, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên, phát triển bền vững theo phương châm sống chung với lũ, sống chung với mặn, với khô hạn, thiếu nước, phù hợp với điều kiện thực tế.

Thành công lớn của Hội nghị là cơ sở để Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về phát triển bền vững ĐBSCL, đề ra tầm nhìn tới năm 2100, mục tiêu tới năm 2050, các quan điểm chỉ đạo, chủ trương và định hướng chiến lược phát triển ĐBSCL, các giải pháp tổng thể và các nhiệm vụ cụ thể trong thời gian tới.

Giữ đúng cam kết về việc hai năm một lần đánh giá toàn diện chính sách cho ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, đến nay, người đứng đầu Chính phủ đã chủ trì hai hội nghị quy mô lớn.

Hội nghị lần thứ 3 này sẽ thảo luận, đánh giá những việc đã làm được, đặc biệt những kết quả nổi bật, những hạn chế, khó khăn, bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp thúc đẩy triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP./.

Nhóm PV