Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Xăng dầu là mặt hàng có vai trò và vị thế đặc biệt quan trọng, mang tầm chiến lược trong bảo đảm ổn định và giữ vững các cân đối lớn của nền kinh tế, nhất là bảo đảm về an ninh năng lượng quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế xã hội, phục vụ người dân và doanh nghiệp
Nhận thức rõ tầm quan trọng của xăng dầu đối với phát triển kinh tế xã hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn dành sự quan tâm chỉ đạo hết sức sát sao và quyết liệt đối với mặt hàng chiến lược này, trong đó đã ban hành Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầuvà các Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 83/2014/NĐ-CP và nhiều chỉ đạo quan trọng khác, qua đó tạo môi trường pháp lý căn bản đối với sự phát triển ổn định và bền vững của thị trường xăng dầu Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, hiện nay, thị trường xăng dầu vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập, những "nút thắt" đặt ra yêu cầu bức thiết cần tháo gỡ, nhất là sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách cho phù hợp với bối cảnh, tình hình thực tiễn.
Hiện nay Bộ Công Thương đang phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan chức năng, trong đó có Bộ Tài chính, đang xây dựng dự thảo Nghị định mới về kinh doanh xăng dầu thay thế Nghị định 83/2014/NĐ-CP và các Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 83 đã được ban hành trước đó nhằm bổ sung, hoàn thiện các cơ chế chính sách cho sự phát triển ổn định, hiệu quả của thị trường xăng dầu.
Để có cái nhìn toàn cảnh, đa diện, đa chiều về vấn đề này, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm: "Để thị trường xăng dầu phát triển ổn định, minh bạch và hiệu quả".
Tham dự Tọa đàm có lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước, đại diện hiệp hội, doanh nghiệp, chuyên gia kinh tế:
- Đại biểu quốc hội Hoàng Văn Cường - Ủy viên Ủy ban Tài chính-Ngân sách Quốc hội
- Phó Cục trưởng Cục Quản lý Giá (Bộ Tài chính) Phạm Văn Bình
- Chủ tịch Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam Bùi Ngọc Bảo
- Tổng Giám đốc hãng hàng không Bamboo Airways Lương Hoài Nam
- Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long
MC: Mở đầu Tọa đàm, câu hỏi đầu tiên xin được dành cho đại diện Bộ Tài Chính, xin ông cho biết, trong thời gian vừa qua, diễn biến giá cả thị trường đối với mặt hàng xăng dầu có nhiều biến động nhưng về cơ bản ổn định nguồn cung trong nước, vậy quan điểm, đánh giá của ông về công tác chỉ đạo điều hành liên quan đến mặt hàng này như thế nào? Theo ông, nguyên nhân chính của biến động giá xăng dầu vừa qua là gì? Hiện nay, tỷ trọng các yếu tố chi phí trong giá xăng dầu như thế nào?
Phó Cục trưởng Cục Quản lý Giá Phạm Văn Bình: Hiện nay, việc kinh doanh xăng dầu, điều hành giá xăng dầu đang được thực hiện theo Nghị định 83 năm 2014, Nghị định 95 năm 2021 và Nghị định 80 năm 2023. Có thể nói, trong giai đoạn vừa qua, mặc dù còn một số nội dung trong công tác quản lý điều hành cần nghiên cứu để hoàn thiện hơn, tuy nhiên có thể đánh giá tổng quát việc điều hành hoạt động kinh doanh xăng dầu, nhất là điều hành giá đã được cơ quan điều hành thực hiện bám sát đúng quy định của nghị định và các văn bản pháp luật hiện nay cũng như theo giá thế giới.
Có thể nói, trong giai đoạn vừa qua, nhất là từ đầu năm 2024 đến nay, diễn biến xăng dầu có lúc tăng, giảm, nếu nghiên cứu xem xét biểu đồ về giá cả thị trường đối với mặt hàng xăng dầu thì thấy, 4 tháng đầu năm, giá xăng dầu có xu hướng tăng. Từ cuối tháng 4 đến nửa đầu tháng 6, giá có chiều hướng giảm, từ nửa đầu tháng 6 đến đầu tháng 7 lại tăng liên tiếp 4 phiên điều hành. Sau đó, 3 phiên gần đây,giá có xu hướng giảm.
Đánh giá tổng quát và so sánh mặt bằng giá ở đầu tháng 1 với hiện nay thì không có nhiều biến động. Cụ thể, đầu tháng 1 (kỳ điều hành 4/1/2024), giá RON-95 III là 22.148, cuối tháng 1 vào kỳ điều hành 25/1, giá RON-95 III là 23.680 đồng. Gần đây nhất vào kỳ điều hành 25/7, giá mặt hàng này đang ở mức 22.884 đồng/lít. Chúng ta thấy, mặt bằng giá từ đầu năm 2024 tới thời điểm hiện nay tương đối ổn định, không có biến động lớn.
Phân tích những nguyên nhân tác động giá xăng dầu; có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân chính tạo ra sự thay đổi giá là do thay đổi giá xăng dầu thế giới. Khi mổ xẻ các yếu tố cấu thành giá, ta thấy giá xăng dầu thế giới hiện nay chiếm khoảng 65-77% so với giá xăng dầu trong nước, tùy theo mặt hàng xăng dầu.
Về yếu tố chi phí, thuế chiếm khoảng 12-29% trong giá xăng dầu.
Đối với chi phí kinh doanh định mức được xác định trên cơ sở báo cáo kiểm toán kinh doanh xăng dầu cũng như các báo cáo thống kê chi phí thực tế tại doanh nghiệp. Hiện nay, chi phí định mức dao động từ 7,5-11% của giá xăng dầu.
Một số yếu tố cấu thành giá nữa là về lợi nhuận, hoạt động trích, chi quỹ… cũng ảnh hưởng tới giá xăng dầu,
Tựu chung lại, giá thế giới là nhóm tác động lớn nhất tới giá xăng dầu.
Bộ Công Thương đang được Chính phủ giao chủ trì xây dựng một nghị định để thay thế cho nghị định xăng dầu hiện nay, nội dung đang nghiên cứu và chúng tôi hy vọng sẽ có những bước chuyển biến trong hoạt động kinh doanh xăng dầu, hướng tới hoạt động kinh doanh xăng dầu phù hợp điều kiện thực tế hiện nay.
Qua các kỳ điều hành, trong Nghị định 80 năm 2023 quy định kỳ điều hành 7 ngày, trong diễn biến đó có cập nhật những thông tin giá thế giới và các yếu tố cấu thành giá.
Với diễn biến đó, yếu tố tác động lớn là giá xăng dầu thế giới, vì nó chiếm trong công thức tính giá cơ sở khoảng 65-70%, vì vậy, diễn biến giá trong 7 tháng vừa qua cũng có những biến động liên tục, nhưng tổng kết lại, mặt bằng giá không có nhiều biến động so với đầu năm 2024.
MC: Là đại diện từ cơ quan lập pháp, ông có đánh giá như thế nào về sự điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan chức năng đối với thị trường xăng dầu thời gian qua? Những vấn đề chính sách cần lưu ý và cần được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện đối với công tác quản lý, điều hành thị trường hiện nay, thưa ông?
Đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường: Xăng dầu là một mặt hàng mang tính chiến lược, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân và sản xuất. Ví dụ như, nếu như giá xăng dầu tăng thì chi phí đi lại sẽ bị ảnh hưởng và tác động ngay. Vận chuyển hàng hóa cũng làm cho chi phí tăng, tác động ngay đến đời sống người mua hàng hóa. Đầu vào của sản xuất cũng sẽ tác động tới giá thành của các doanh nghiệp.
Đây cũng là mặt hàng rất nhạy cảm, thường xuyên biến động. Nhạy cảm vì phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: Chính trị thế giới biến động, chiến tranh, mâu thuẫn địa chính trị xảy ra, diễn biến kinh tế thế giới, thậm chí cả vấn đề thiên tai cũng có thể ảnh hưởng đến giá dầu. Điều đó đặt ra vấn đề là phải làm sao bình ổn điều hành giá và bình ổn điều hành giá không chỉ riêng đối với một quốc gia mà cả tầm thế giới. Chúng ta nhìn thấy trên thế giới còn có những liên minh đặt ra những hạn ngạch về việc phải khai thác, sản xuất một lượng bao nhiêu để đảm bảo giá ổn định.
Ở Việt Nam, Chính phủ đã có rất nhiều nỗ lực để điều hành và bình ổn giá xăng dầu. Điển hình là chúng ta có 3 công cụ chủ yếu. Công cụ đầu tiên là điều hành thông qua giá cơ sở, mặc dù xăng dầu có rất nhiều doanh nghiệp, các công ty kinh doanh của Nhà nước, kể các doanh nghiệp tư nhân nhưng giá bán ra trên thị trường phải dựa trên mức giá cơ sở và do Nhà nước điều hành, 7 ngày lại phải công bố điều chỉnh một lần. Như vậy, thực chất giá bán ra trên thị trường ấy do Nhà nước ấn định.
Công cụ thứ hai Chính phủ sử dụng là công cụ về thuế, khi chúng ta thấy rằng giá thế giới tăng cao cần phải giảm chi phí cho cấu thành giá chúng ta phải giảm thuế nhập khẩu, thậm chí giảm thuế môi trường.
Công cụ thứ ba là bình ổn giá bằng việc trích lập quỹ bình ổn. Như vậy công cụ sử dụng của chúng ta khá tổng hợp và về mặt hình thức, cơ bản sử dụng công cụ tổng hợp như nhiều quốc gia đã sử dụng.
Việc điều hành như thế đã mang lại kết quả khá tích cực. Nhà nước có vai trò lớn trong việc điều hành giá xăng dầu. Điều đó thể hiện trong nhiều kỳ biến động lớn về giá xăng dầu trên thế giới chúng ta đã có những chính sách để không tạo ra cú sốc bất thường về giá xăng dầu.
Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế, mặc dù Nhà nước kiểm soát về giá, ấn định giá nhưng giá vẫn phải theo thế giới. Nhập vào cao thì chúng ta vẫn phải điều hành giá cao và khi thị trường xuống thấp mới hạ giá được. Chúng ta phải phụ thuộc vào biến động bất thường, thường xuyên của thế giới, trong vòng chậm nhất cũng là 7 ngày.
Điểm thứ hai là vẫn mang tính chất mệnh lệnh hành chính của Nhà nước áp đặt cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu phải bán mức giá như thế này. Khi đã dùng hành chính áp đặt như thế sẽ không bảo đảm lợi ích đứng về mặt lợi nhuận do hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó tính toán.
Trong trường hợp dùng công cụ áp đặt quá mức, doanh nghiệp không còn lợi ích nữa thì đương nhiên doanh nghiệp sẽ tìm biện pháp để lảng tránh. Điển hình nhất như chúng ta thấy trong thời gian vừa qua có những thời kỳ, có nơi người ta thông báo hết xăng dầu, không bán được.
Đối với công cụ về Thuế hay sử dụng công cụ trích Quỹ bình ổn, thực chất chúng ta dùng chính nguồn lực của ngân sách hoặc nguồn lực của người dân để tạo ra bình ổn giá chứ chúng ta chưa sử dụng công cụ sức mạnh của thị trường.
Công cụ thị trường có thể sử dụng để tạo ra bình ổn giá kể cả khi giá thế giới biến động bất thường nhưng nếu như có công cụ thị trường, các doanh nghiệp có tiềm lực vẫn có thể bán ra ở mức hợp lý với mức dự trữ tốt. Chính từ đó dẫn đến tình trạng chính sách này mang tính chất cào bằng. Doanh nghiệp nào đầu tư kinh doanh tốt thì cũng bán giá đó, doanh nghiệp nào kinh doanh kém cũng bán giá đấy. Tức là không tạo ra sự cạnh tranh về giá bán trên thị trường.
Nếu chúng ta để thị trường quyết định thì đương nhiên các doanh nghiệp đó sẽ cố gắng, nỗ lực làm sao tiết giảm chi phí đầu vào, thậm chí người ta có thể mua lúc rẻ và bán ra lúc đắt thì sẽ có giá hợp lý mà không chịu giá chung thì sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tạo ra tiềm lực tốt, tạo ra khả năng kinh doanh tốt. Đấy là những điều chúng ta cần phải khắc phục.
Tôi cho rằng việc sửa đổi chính sách quản lý trong thời gian tới phải hướng vào mấy điểm.
Thứ nhất, chúng ta phải hướng vào việc thay đổi cơ chế. Cơ chế quản lý hiện nay đang dùng là cơ chế quản lý hành chính Nhà nước nên chuyển sang công cụ thị trường, để thị trường điều tiết. Vì hiện nay chúng ta có cơ sở để dùng công cụ thị trường, không lo bị động bởi vì xăng dầu sản xuất trong nước có nguồn khá lớn (chiếm 70%), không hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn cung bên ngoài và không hoàn toàn bị động. Tôi cho rằng để thị trường cạnh tranh là yếu tố bao trùm.
Từ việc dựa vào công cụ thị trường như thế thì đương nhiên giá kinh doanh như thế nào cũng phải để cho các doanh nghiệp tự do xác định giá để có tính cạnh tranh. Nhà nước không nên can thiệp nhưng Nhà nước có công cụ để điều tiết. Nếu như doanh nghiệp bán với giá phi thị trường hay trong một giai đoạn nào đó liên kết với nhau để bán với giá cao thì phải chịu sự điều tiết của Nhà nước. Ở đây có hai công cụ thuế là thuế nhập khẩu và thuế thu nhập, chúng ta có thể dùng công cụ đó để điều tiết, buộc doanh nghiệp phải nghĩ đến chuyện tăng lượng bán lên, bán với giá thấp hơn thì lợi ích nhiều hơn là chuyện khống chế lượng bán để tăng giá.
Muốn có được công cụ thị trường để cạnh tranh thì chúng ta phải có thị trường cạnh tranh mà muốn có thị trường cạnh tranh thì việc mua bán để thị trường quyết định, trăm người bán, vạn người mua.
Chúng ta cũng không thể thả nổi hoàn toàn. Chúng ta phải sử dụng các công cụ hiện đại để bình ổn giá xăng dầu. Điển hình là việc thế giới, các công ty lớn hay sử dụng các công cụ về phái sinh để bình ổn.
Tôi cho rằng chúng ta cũng phải tiến tới việc tạo ra các cơ sở pháp lý và các điều kiện khuôn khổ cho các doanh nghiệp sử dụng công cụ phái sinh này để bình ổn. Bên cạnh đó phải có nguồn lực dự trữ quốc gia, phải có thị trường để làm sao cho mọi người có thể tham gia giao dịch tốt.
MC: Với tư cách là đại diện cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, từ sự phân tích nêu trên của lãnh đạo Bộ Tài Chính và đại biểu quốc hội, ông có thể bổ sung, phân tích thêm về những "nút thắt" cần tập trung tháo gỡ đối với thị trường xăng dầu hiện nay?
Chủ tịch Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam Bùi Ngọc Bảo: Xăng dầu là một mặt hàng hết sức nhạy cảm và Chính phủ cũng đã có những quan tâm trong 20 năm nay. Chúng ta thấy rằng, bắt đầu từ năm 2003 với quyết định đầu tiên là Quyết định 187 về việc tổ chức kinh doanh xăng dầu. Từ đó đến nay, chúng ta đã kịp thời xây dựng 5 nghị định để hoàn thiện cơ chế quản lý về hoàn thiện tổ chức kinh doanh xăng dầu. Đó là những Nghị định 55, Nghị định 84, Nghị định 83, Nghị định 95 (sửa đổi cho Nghị định 83) và Nghị định 80 vừa qua.
Nói như thế để thấy rằng, đây là lĩnh vực Nhà nước, Chính phủ hết sức quan tâm và mỗi lần sửa đổi các Nghị định đều có những đánh giá về quá trình tổ chức thực thi và quản lý lĩnh vực xăng dầu. Chúng ta hoàn thiện cơ chế chính sách để làm sao đưa việc tổ chức quản lý và kinh doanh xăng dầu đi vào nền nếp.
Việt Nam cũng đã vượt qua những ảnh hưởng từ các cuộc khủng hoảng năng lượng trên thế giới, và qua đó nhận ra những "nút thắt" rất lớn chúng ta cần sửa đổi. Chúng ta đã bỏ ra nhiều vốn ngân sách, áp dụng nhiều biện pháp mang tính chất về hành chính, nhiều lúc có thể nói là phi thị trường, do đó những bất cập là liên tục xảy ra khi có những biến động.
Trước hết phải nói rằng, xăng dầu là mặt hàng liên thông nhiều mặt hàng khác, đặc biệt liên thông cả đến thị trường quốc tế. Đúng như bên Bộ Tài chính có đánh giá, trong cơ cấu giá, giá xăng dầu thế giới chiếm tới 64-72%, rõ ràng chúng ta phụ thuộc hoàn toàn vào quốc tế.
Xăng dầu không hoàn toàn tuân thủ theo quy luật cung cầu thuần túy mà từ lâu đã thoát ly ra khỏi quy luật cung cầu mà phụ thuộc nhiều vào địa chính trị như: chiến tranh, thiên tai, những sự đầu cơ quá lớn của các tổ chức tài chính bên ngoài; do đó chúng ta cũng chịu ảnh hưởng khi điều hành giá bán phụ thuộc vào giá xăng dầu thế giới. Như vậy chúng ta không thể thoát ly được khỏi giá xăng dầu quốc tế.
Nút thắt trong tất cả các nghị định trong thời gian vừa qua thì cơ bản nhất vẫn là các cơ chế điều hành mang tính chất hành chính, đặc biệt là vấn đề giá. Chúng ta quy định kỹ quá, rõ ràng cơ quan quản lý Nhà nước vẫn 7 ngày phải xác định giá (theo Nghị định 95, 80), như vậy cơ quan quản lý Nhà nước làm thay cho doanh nghiệp, kể cả những giai đoạn giá chỉ 15.000 đồng/l cũng vận hành đúng như thế, chế tài cũng như thế đến khi giá giai đoạn lên đến 33.000 đồng năm 2022 cũng chỉ có những cơ chế đó vận hành.
Do vậy, việc xác định giá trong giai đoạn này là một "nút thắt" tôi cho rằng là lớn nhất. Đúng như Giáo sư Cường vừa mới đề cập, chúng ta phải có cơ chế gì để xác định cái gì thuộc về thị trường để các doanh nghiệp quyết định.
Chúng tôi cho rằng, đối với quản lý Nhà nước, trong thời gian tới là phải bảo đảm an ninh năng lượng, bảo đảm nguồn cung ứng cho nền kinh tế này. Thứ hai, bảo đảm quản lý về mặt bằng giá chung để làm sao không có tác động mạnh hoặc khi thế giới biến động mạnh thì chúng ta sử dụng những chính sách tài khóa thông qua thuế, cơ chế về bình ổn để xử lý, còn lại để thị trường vận hành.
Khi có cạnh tranh thì xu hướng là luôn luôn đạt được mức giá mà người tiêu dùng được hưởng lợi, bên cạnh đó những quy định kèm theo mang tính chất quốc tế, chúng ta phải áp dụng, đó là những chính sách sử dụng nghiệp vụ về phái sinh. Phái sinh ở đây không thuần túy là việc đầu tư về tài chính mà đây là những nghiệp vụ phòng vệ giá, tức là bảo hiểm giá xăng dầu.
Nhưng quy định cũng thiếu đồng bộ khi những hoạt động về phái sinh không được hoạch toán vào chi phí bảo hiểm của xăng dầu mà lại cho đây là hoạt động về đầu tư tài chính.
Thực tế tất cả các doanh nghiệp xăng dầu trên thế giới đều làm nghiệp vụ phái sinh. Nhưng nếu sử dụng nghiệp vụ này ở Việt Nam, nếu đúng thì không sao nhưng nếu lỗ thì doanh nghiệp phải chịu hoàn toàn trách nhiệm bởi đây là hoạt động tài chính, không được tổ chức hoạch toán.
Vấn đề này được điều chỉnh bởi nhiều quy định khác nhau. Do đó, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định tôi cho rằng hết sức đúng đắn, là phải đánh giá, rà soát lại và xây dựng mới nghị định để thay thế những tồn tại trong Nghị định 83, Nghị định 95,…trong thời gian vừa qua.
MC: Từ thực tế thực thi chính sách, triển khai các hoạt động kinh doanh, là đại diện doanh nghiệp có sử dụng nhiều xăng dâu, ông có thể chia sẻ về những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động kinh doanh xăng dầu hiện nay của doanh nghiệp, nhất là những khó khăn, vấn đề "bức xúc" mà doanh nghiệp mong muốn được các cơ quan chức năng tập trung tháo gỡ hiện nay?
Tổng Giám đốc Hãng hàng không Bamboo Airways Lương Hoài Nam: Tôi nghĩ khó khăn đầu tiên là không có một nội dung nào áp dụng cho xăng dầu hàng không; những quy định về quản lý giá, bình ổn giá hiện nay đang áp dụng cho các loại xăng 95, 92, dầu Diezel.
Có một nghịch lý là xăng dầu phi hàng không có hàng chục doanh nghiệp nhập khẩu đầu mối, có hệ thống bán lẻ rất đồ sộ và phức tạp, tính hành chính nhiều, tính thị trường ít.
Trong khi xăng dầu hàng không chỉ có 2 nhà cung cấp thì Nhà nước thả nổi hoàn toàn, không quản lý giá. Bộ Tài chính chỉ quản lý một phần nhỏ về phí.
Đây là một nghịch lý, cần sửa đổi về quản lý giá xăng dầu theo quy định của Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Công thương để có sự hợp lý trong tiếp cận xăng dầu dân dụng bình thường và xăng dầu hàng không.
Nếu không quản lý được giá thì sẽ sinh ra nghịch lý thứ 2, đó là hiện nay, đối với hàng không, chi phí xăng dầu đang là cao nhất. Trên đường bay nội địa, chi phí xăng dầu cao hơn chi phí còn lại. Đây là khó khăn đối với các doanh nghiệp hàng không.
Trong khi đường bay nội địa, Nhà nước đang thả nổi chi phí, giá nhiên liệu đầu vào, không theo phụ thu nhiên liệu và áp thuế nhập khẩu 7%, còn bay quốc tế thì không có áp trần, không phải trả thuế nhập khẩu.
Vấn đề thứ 3, đó là công cụ để bình ổn giá xăng dầu, công cụ thị trường, không phải công cụ hành chính, tất nhiên nhà nước vẫn phải quản lý.
Tôi luôn có quan điểm rằng, công cụ hành chính là cuối cùng, công cụ thị trường là trước. Bao giờ hết công cụ thị trường rồi mà cần tiếp tục bình ổn giá thì áp dụng công cụ hành chính.
Đối với công cụ thị trường về xăng dầu, chủ yếu là công cụ phái sinh thì ở Việt Nam, hệ thống quản lý, cách hiểu về phái sinh của xăng dầu hết sức bất cập. Chúng ta hiểu chưa đúng về phái sinh, hạch toán về phái sinh cũng chưa rõ, tạo ra nhiều rủi ro đối với các doanh nghiệp.
Chúng ta đang kinh doanh tài chính, phái sinh mà doanh nghiệp dùng có thể lỗ hoặc lãi, thường quan điểm của quản lý nhà nước về pháp luật là có lời thì không sao, còn lỗ thì các doanh nghiệp phải dè chừng, nhất là doanh nghiệp có vốn của nhà nước.
Cách sử dụng phái sinh là hạch toán gộp trong chi phí xăng dầu của doanh nghiệp, phái sinh là để bình ổn chi phí xăng dầu, tức là hạch toán gộp trong chi phí xăng dầu của doanh nghiệp, không thể tính rời như một kinh doanh bình thường.
Mặt khác, một doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ thường xuyên hoạt động hợp lý khoảng 30% chi phí nhiên liệu của doanh nghiệp, không ai mua một giao dịch phái sinh 100% cho tiêu thụ xăng dầu. Mục đích là để bình ổn chi phí xăng dầu ở tỷ lệ 30% còn chấp nhận 70% là thả nổi theo giá nhiên liệu xăng dầu. Bình ổn là để giảm bớt rủi ro về dòng tiền khi giá xăng dầu tăng cao.
Bất kỳ doanh nghiệp nào sau khi thực hiện xong giao dịch phái sinh thì luôn mong giá xăng dầu giảm và chấp nhận chịu lỗ từ giao dịch phái sinh này để có lãi từ 70% xăng dầu thả nổi.
Nhưng với cách hiểu, thái độ của chúng ta đối với phái sinh hiện nay, các doanh nghiệp này rất dễ bị quy trách nhiệm do phái sinh bị lỗ, mặc dù giao dịch phái sinh lỗ là diễn biến có lợi cho doanh nghiệp.
Tôi nghĩ rằng, dùng công cụ phái sinh để bình ổn xăng dầu thì chúng ta phải có cách hiểu đúng về phái sinh. Phái sinh là công cụ rất lớn, chúng ta phải bắt đầu từ công cụ này thì phải hiểu và hạch toán cho đúng, đồng thời đối xử với các doanh nghiệp áp dụng công cụ này cho đúng thì mới khả thi.
Ý kiến dùng các công cụ thị trường để bình ổn giá trước, tôi nghĩ xăng dầu phi hàng không có hàng chục nhà nhập khẩu thì dùng công cụ thị trường là đúng, nhưng công cụ thị trường cũng chủ yếu là áp dụng phái sinh thì mới bình ổn được.
MC. Như đã phân tích ở trên, bên cạnh thuận lợi, hoạt động của thị trường xăng dầu còn nhiều bất cập, tồn tại. Ở góc độ chuyên gia kinh tế, ông có nhìn nhận như thế nào về các yêu cầu đặt ra trong xây dựng một dự thảo Nghị định mới về kinh doanh xăng dầu thay thế Nghị định 83/2014/NĐ-CP và các Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 83 đã được ban hành trước đó. Việc xây dựng Nghị định này có phải là yêu cầu bức thiết, tất yếu, khách quan trong bối cảnh hiện nay, thưa ông?
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long: Như Chủ tịch Hiệp hội xăng dầu đã nói, từ năm 2003 đến nay chúng ta có 1 quyết định và 5 nghị định, quyết định đầu tiên là 187, sau đó là 55, 84, 83, 95 và 80. Tuổi thọ của các văn bản này lúc dài, lúc ngắn mà ngắn nhất là nghị định 80.
Tại sao lại như vậy? Đó là do vị trí chiến lược quan trọng của sản phẩm này. Đây là mặt hàng chiến lược quan trọng. Nó tác động đến sản xuất tiêu dùng, đời sống, an ninh quốc phòng và đồng thời nó tác động tới kinh tế vĩ mô.
Tác động tới kinh tế vĩ mô ở chỗ nào? Biểu hiện chúng ta thấy là khi mà giá xăng dầu tăng thì nó tác động tới mặt bằng giá, tác động trực tiếp và gián tiếp làm cho chỉ số lạm phát tăng và lạm phát là một trong những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và đồng thời nó là một vấn đề an ninh năng lượng. Chính tầm quan trọng đó cho nên Nhà nước, Chính phủ cũng luôn quan tâm xây dựng một văn bản pháp quy riêng để quản lý mặt hàng này.
Câu chuyện đặt ra là, trong bối cảnh chúng ta vừa xây dựng Nghị định sửa đổi Nghị định 80, tại sao bây giờ chúng ta lại thay thế nó hoàn toàn mới? Theo quan điểm tôi của là bởi những lý do như thế này: Tác động đến giá xăng dầu thì có rất nhiều yếu tố. Trước tiên là quan hệ cung cầu. Có rất nhiều những nhân tố tác động đến quan hệ cung cầu xăng dầu.
Trong thời gian qua vấn đề an ninh năng lượng của quốc tế nói chung cũng như của Việt Nam nói riêng đều bị tác động bởi yếu tố địa chính trị (xung đột Nga - Ukraine, xung đột Hamas – Israel) và nhiều biến động khác. Từ đó dẫn đến giá dầu thế giới diễn biến một cách hết sức phức tạp, khó lường và nó làm cho nguồn cung trở nên khan hiếm. Đồng thời nó làm cho chi phí vận tải biến động tăng cao, khó lường, thất thường,...
Trước tình hình biến đổi như vậy thì nhiều quy định trong các nghị định, văn bản quản lý mặt hàng xăng dầu không còn thích hợp, cần phải thay đổi.
Cho nên chính vì vậy, Thường trực Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công Thương phối hợp với các bộ xây dựng một dự thảo nghị định mới. Như tôi được biết đến thời điểm hiện tại, Bộ Công Thương đã tiến hành dự thảo lần thứ ba và đang trình Bộ Tư pháp để thẩm định.
Trong văn bản này tôi thấy có rất nhiều nội dung mới, những điểm mới như: Thứ nhất là công thức và cơ chế định giá xăng dầu. Vấn đề thứ hai là vấn đề về quỹ bình ổn giá. Thứ ba là về điều kiện kinh doanh xăng dầu. Thứ tư là hệ thống kinh doanh xăng dầu và một số vấn đề khác.
Tôi cho rằng, việc cấp thiết hoàn thiện Nghị định mới về quản lý kinh doanh xăng dầu là cần thiết để phù hợp với tình hình biến động của thị trường xăng dầu hiện nay.
MC. Luật Giá 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2024. Việc thực hiện bình ổn giá hàng hóa, dịch vụ, trong đó có mặt hàng xăng dầu được quy định như thế nào?
Phó Cục trưởng Cục Quản lý Giá Phạm Văn Bình: Quy định về bình ổn giá đã được quy định tại Luật giá từ năm 2012 và tiếp tục được bổ sung, củng cố ở Luật giá năm 2023 có hiệu lực từ ngày 1/7/2024.
Đối với mặt hàng xăng dầu thì thị trường xăng dầu được điều chỉnh bởi những quy luật của thị trường cũng như những quy định chung về kinh doanh xăng dầu. Theo quy định tại Luật giá 2023, có 9 nhóm mặt hàng bình ổn giá, trong đó xăng dầu thành phẩm là một trong những mặt hàng đó.
Bên cạnh đó, Luật giá cũng xác định rất rõ những trường hợp thực hiện bình ổn giá.
Cụ thể, Luật giá quy định, thứ nhất là mặt bằng thị trường hàng hóa dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa dịch vụ bình ổn giá có biến động bất thường ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội cũng như sản xuấ t kinh doanh và đời sống của người dân thì sẽ thực hiện bình ổn giá. Hiện nay, những quy định, trình tự, cách thức để bình ổn giá cũng đã được quy định rất rõ tại Luật giá cũng như Nghị định số 87 hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật giá.
Thứ hai là thực hiện bình ổn giá trong tình trạng khẩn cấp, sự cố thảm hại, thiên tai, dịch bệnh.
Tất nhiên, những tình huống này kèm theo là sự biến động bất thường trong mặt bằng giá. Lúc đấy, chúng ta cũng sẽ thực hiện bình ổn giá.
Tại Luật giá năm 2023 cũng xác định rõ 5 biện pháp thực hiện bình ổn giá khi thuộc 1 trong 2 trường hợp nêu trên. Tuy nhiên, ngay cả trong biện pháp bình ổn giá thì cũng hướng tới những công cụ của thị trường.
Cụ thể, biện pháp đầu tiên trong các biện pháp bình ổn giá là điều hòa cung cầu, đây là một trong những biện pháp bình ổn giá. Điều hòa cung cầu bao gồm điều hòa sản xuất trong nước, xuất khẩu, nhập khẩu, điều hòa hàng hóa giữa vùng miền, giữa những địa phương liên quan tới lưu thông hàng hóa, hoặc biện pháp liên quan tới dự trữ quốc gia, hoặc dự trữ lưu thông, đấy là nhóm biện pháp thứ nhất về bình ổn giá.
Nhóm Biện pháp thứ 2 về bình ổn giá và Luật giá cũng đã đề cập tới đó là sử dụng các công cụ về biện pháp tài chính, tiền tệ phù hợp theo quy định của pháp luật cũng đã được quy định ở pháp luật chuyên ngành.
Nhóm biện pháp thứ 3 về bình ổn giá có thể Nhà nước sẽ phải can thiệp đó là biện pháp về định giá. Về định giá thì có thể là giá tối đa, tối thiểu, khung giá… tùy theo từng mặt hàng và mức độ quản lý.
Nhóm biện pháp thứ tư có thể thực hiện bình ổn giá là có thể áp dụng biện pháp hỗ trợ về giá. Biện pháp này đang trực tiếp nên phải thực hiện theo những quy định của pháp luật liên quan cũng như những điều hướng cụ thể, không can thiệp thô bạo vào giá cả thị trường.
Nhóm biện pháp nữa đó là sử dụng công cụ quỹ bình ổn giá, với những mặt hàng…. Trong nhóm biện pháp trong 2 trường hợp cần phải thực hiện bình ổn giá. Còn những nội dung cụ thể và chi tiết thì trong những Nghị định và trong những nội dung hướng dẫn của pháp luật chuyên về giá cũng như một số pháp luật nhất là đối với xăng dầu thì trong những Nghị định, quy định cũng đã quy định về xăng dầu.
MC. Trước các bất cập của thị trường xăng dầu có nhiều ý kiến cho rằng nên thành lập sàn giao dịch xăng dầu. Theo đó, ngày 18/7 Văn phòng Chính phủ có Công văn số 5124/VPCP-TH truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Lê Minh Khái về việc nghiên cứu thông tin báo chí phản ánh kiến nghị về việc thành lập Sàn giao dịch xăng dầu nhằm tăng tính công khai, minh bạch, khắc phục những bất ổn của thị trường xăng dầu thời gian qua, trên cơ sở đó có giải pháp triển khai phù hợp theo thẩm quyền và quy định của pháp luật.
Thưa ông, dưới góc độ là một chuyên gia kinh tế, quan điểm của ông về việc thành lập Sàn giao dịch riêng cho mặt hàng xăng dầu như thế nào?
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long: Trong thời gian gần đây trên các phương tiện thông tin đại chúng có rất nhiều ý kiến đưa ra với thị trường xăng dầu, cần thành lập Sàn giao dịch xăng dầu.
Trước tình trạng đó, Chính phủ đã có văn bản chỉ đạo Bộ Công Thương nghiên cứu, xem xét có nên hình thành Sàn giao dịch xăng dầu hay không. Sàn giao dịch đó phải bảo đảm tính minh bạch và ổn định của thị trường và trên cơ sở đó xây dựng cơ sở pháp lý như thế nào.
Trên cơ sở đó, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đặt vấn đề tham khảo kinh nghiệm các Sàn giao dịch xăng dầu của thế giới đồng thời xem xét Việt Nam có nên thành lập sàn giao dịch xăng dầu riêng hay không?
Theo tôi nghĩ, Sàn giao dịch xăng dầu đối với chúng ta còn mới mặc dù chúng ta đã có một số sàn giao dịch ở các lĩnh vực khác rồi nhưng những sàn giao dịch đó có sàn phát huy được hiệu quả, có sàn èo uột, không tồn tại được.
Trước khi đi vào vấn đề có nên thành lập Sàn giao dịch xăng dầu riêng hay không thì chúng ta phải hiểu sản phẩm xăng dầu đó là gì?
Xăng dầu là sản phẩm của quá trình chế biến dầu thô và khí tự nhiên. Đây là các sản phẩm của nguyên liệu hóa thạch. Sản phẩm chế biến từ dầu thô có hai loại. Loại thứ nhất sản xuất ra các nhiên liệu như nhiên liệu xăng dầu, dầu mazut, dầu diesel, nhiên liệu phục vụ cho hàng không. Sản phẩm thứ hai của thị trường chế biến dầu thô là các loại dung môi cho công nghiệp, sơn, nhựa đường…
Để phục vụ cho nhu cầu đầu tư và bảo hiểm thì tất cả các sản phẩm như xăng dầu và các sản phẩm không phải là nhiên liệu xăng dầu đều được sản xuất từ nhiên liệu dầu thô.
Đối với Việt Nam, năm 2020 Bộ Tài chính đã cho phép Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam được niêm yết thí điểm về các mặt hàng dầu thô, năng lượng để bảo hiểm giá và đầu tư. Đây là việc làm hết sức thận trọng của Chính phủ, cũng như khi taxi công nghệ phát triển trên thế giới để đưa vào Việt Nam Chính phủ cũng giao cho Bộ GTVT phải làm thí điểm. Trên cơ sở thí điểm sẽ rút kinh nghiêm sau đó mới triển khai đại trà,
Cũng như vậy việc này tôi thấy từ năm 2020 đã giao cho Sở giao dịch hàng hóa thí điểm thực hiện. Việc này được ứng dụng ban đầu và tiến hành suôn sẻ mà không có vấn đề gì xảy ra, nhưng từ ngày 27/5/2024, Bộ Công Thương đã cho dừng việc thí điểm này với lý do sửa lại Nghị định 83 kinh doanh xăng dầu và sửa Nghị định 158, Nghị định 151 về Sở giao dịch hàng hóa.
Trở lại quan điểm Việt Nam có cần thành lập Sàn giao dịch cho mặt hàng xăng dầu hay không, quan điểm cá nhân tôi nếu chúng ta thành lập được Sàn giao dịch xăng dầu thì rất tốt và cần thiết vì Sàn giao dịch xăng dầu về mặt lý thuyết có những lợi ích:
Lợi ích thứ nhất, tăng cường tính minh bạch, công khai về giá cả, giao dịch, giảm thiểu rủi ro.
Lợi ích thứ hai, tạo cơ hội đầu tư cho tất cả các các nhà đầu tư trong và ngoài nước đều có quyền tham gia
Lợi ích thứ ba là quản lý rủi ro trên sàn giao dịch này bằng các phương thức giao dịch như là các giao dịch bằng các hợp đồng, hợp đồng phái sinh ngoài việc đầu tư thì việc quản lý rủi ro tốt
Thứ tư là thúc đẩy sự cạnh tranh đối với các sàn giao dịch
Lợi ích thứ năm, về mặt lý thuyết thì sẽ phát triển cơ sở hạ tầng tài chính, thúc đẩy phát triển các dịch vụ tài chính hay Ngân hàng, chứng khoán…
Đối với Việt Nam nếu có sự giao dịch xăng dầu trên Sàn giao dịch sẽ tạo ra thị trường xăng dầu hoạt động một cách công khai, minh bạch. Cùng với đó sẽ giảm độc quyền.
Hiện nay, có 39 doanh nghiệp kinh doanh đầu mối, trong đó 6 doanh nghiệp lớn nhất chiếm thị phần tương đối lớn khoảng 88%. Phần lớn các doanh nghiệp này đều có vốn của Nhà nước, cho nên khi có Sàn giao dịch thị phần sẽ được chia lại, các khu vực tư nhân sẽ tham gia sâu hơn vào thị trường xăng dầu. Đồng thời, mức độ cạnh tranh sẽ tăng lên được lợi cho người tiêu dùng và nền kinh tế.
Bên cạnh các lợi ích đó, khi lập Sàn giao dịch xăng dầu vẫn có những thách thức:
Thách thức lớn nhất, đầu tiên là chi phí ban đầu rất lớn. Ví dụ việc lập Sàn giao dịch yêu cầu phải có khoản đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng, về công nghệ và nhân lực. Điều này có thể là một thách thức rất lớn cho nền kinh tế nếu chúng ta không có kế hoạch quản lý một cách hiệu quả.
Thách thức thứ hai là công tác quản lý và giám sát. Chúng ta cần có một cơ chế quản lý và giám sát nghiêm ngặt để đảm bảo các hoạt động không có hiện tượng thao túng thị trường.
Thách thức nữa là khả năng tham gia của các đối tượng. Tất cả các doanh nghiệp đầu tư phải đảm bảo được đào tạo bài bản, được cung cấp thông tin đầy đủ để tham gia giao dịch. Đây là yêu cầu rất lớn về nỗ lực tham gia giáo dục và truyền thông.
Thách thức thứ tư là rủi ro về mặt thị trường. Thị trường xăng dầu rất nhạy cảm với sự biến động của giá cả.
Thách thức thứ năm là khi xây dựng Sàn giao dịch xăng dầu phải tương thích với các quy định của quốc tế.
Để chúng ta có thể xây dựng được Sàn giao dịch xăng dầu theo quan điểm của các nhân tôi cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng mô hình, phương thức hoạt động kinh doanh cũng như phương thức vận hành.
Đối với hàng hóa là xăng dầu khi thành lập Sàn giao dịch cần rất nhiều thời gian tập trung công sức để nghiên cứu kỹ lưỡng vì mặt hàng xăng dầu có những đặc điểm riêng rất nhạy cảm nên việc xây dựng Sàn rất khó khăn và phức tạp.
Khi đã có sàn giao dịch xăng dầu rồi thì có những câu hỏi đặt ra với Nhà nước là: Thứ nhất, mặt hàng này có chịu sự chỉ đạo chặt chẽ của cơ quan Nhà nước theo cơ chế thị trường hay không? Thứ hai, Nhà nước can thiệp vào thị trường xăng dầu ở mức độ nào?
Vấn đề thứ ba, định kỳ cơ quan Nhà nước phải công bố giá điều hành hay giá trần xăng dầu hay để doanh nghiệp tựu quyết định. Thứ tư, Bộ Công Thương hay Bộ Tài chính quản lý giá bán lẻ xăng dầu?
Theo quan điểm của cá nhân tôi liệu chăng có nên xây dựng Sàn giao dịch xăng dầu riêng hay chúng ta sẽ tổ chức niêm yết trên Sở giao dịch hàng hóa như mô hình của các nước hiện nay đang làm. Đây là vấn đề chúng ta cần xem xét cụ thể.
Việc thành lập Sàn giao dịch xăng dầu là đúng và cần. Tuy nhiên để quản lý, vận hành sàn giao dịch một cách hiệu quả, đáp ứng được mục tiêu và mục đích đặt ra cần phải có thời gian nghiên cứu, đánh giá hết sức kỹ lưỡng, sự đồng thuận, quyết tâm của Chính phủ và các cơ quan liên quan và mất rất nhiều thời gian.
Trước mắt theo tôi nên cho phép giao dịch lưu thông các mặt hàng năng lượng tại Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam như trước kia để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm và nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp.
MC. Qua nhận định và nội dung đề xuất của chuyên gia Ngô Trí Long, các ông có nhận định như thế nào về tính khả thi của quy định về công cụ bảo hiểm giá thông qua Sở Giao dịch hàng hóa khi được đưa vào dự thảo Nghị định. Nếu quy định này được thông qua, ở góc độ Hiệp hội, doanh nghiệp thì các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và người dân sẽ được tiếp cận và hưởng các lợi ích như thế nào?
Bên cạnh đó việc thành lập Sàn Giao dịch xăng dầu thành phẩm cũng là một để xuất cần nghiên cứu, xem xét. Các ông nghĩ như nào về vấn đề này?
Chủ tịch Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam Bùi Ngọc Bảo: Trước hết, đối với sàn giao dịch hàng hóa hay nói chúng ta muốn xây dựng Sàn Giao dịch xăng dầu. Thực ra tôi không hiểu đươc rõ lắm về việc ý định chúng ta xây dựng Sàn đấy để làm gì. Nếu xây dựng các sàn như sàn giao dịch ở Singapore, sàn giao dịch ở New York, Mỹ, sàn giao dịch ở EU thì rõ ràng đây là các sàn giao dịch yêu cầu tính liên thông rất cao độ, cũng không khác gì sàn giao dịch vàng bạc. Các sản phẩm ở đó đều phải liên thông, chứ chúng ta không thể xây dựng sàn và có chỉ số giá riêng của xăng dầu được.
Bên cạnh đó, với những sàn mà giao dịch hàng hóa theo chỉ số nước ngoài, chỉ số gắn với WTI, dầu thô của Mỹ, hay Brent của EU hoặc ở một số sản phẩm khác thì rõ ràng tính liên thông là có và hiện tại các doanh nghiệp bám vào đó để kinh doanh và có tổ chức các nghiệp vụ phái sinh thông qua các tổ chức tài chính như ngân hàng, công ty thương mại nước ngoài hoặc trực tiếp tham gia.
Chúng ta chưa liên thông được bởi trong cơ cấu giá hình thành giá xăng dầu bán ra còn có vấn đề về thuế như thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế trị giá gia tăng, quỹ bình ổn, chi phí định mức,…
Chúng ta có sự khác biệt rất lớn nên nếu chúng ta tạo dựng một sàn để các doanh nghiệp đầu mối, thương nhân phân phối, để tạo ra một sàn đấu thầu thì đúng hơn. Tôi không hiểu các nhà quản lý mong muốn xây dựng sàn như vậy hay sàn giống quốc tế, sàn có thể kéo tất cả người dân, doanh nghiệp tham gia như sàn chứng khoán thì cái đó càng cần có thời gian.
Tôi cho trong thời gian vừa qua, Sở Giao dịch hàng hóa của chúng ta có một bước tiến nhất định thông qua sắt, thép và những hàng hóa khác. Bên Mỹ có việc sàn giao dịch hàng hóa quy định ở Chicago, sàn dầu ở Newyork… Nhưng chúng ta hoàn toàn có bước thử nghiệm tiếp tục cho bên Sở Giao dịch hàng hóa có thêm hàng hóa nữa là xăng dầu và có thể liên thông thêm mặt hàng như xăng 92, 95 để tiếp tục xem thực thi như nào trong một thời gian.
Còn xây dựng Sàn Đấu thầu xăng dầu trong nước thì tôi cho rằng phải đi theo một phương thức khác có những quy định phù hợp.
Đối với kiến nghị của doanh nghiệp trong việc xây dựng Nghị định, đề nghị Nghị định mới đưa vào quyền của doanh nghiệp trong kinh doanh xăng dầu được thực thi các nghiệp vụ phái sinh để bảo hiểm giá, phòng vệ giá, được phép làm và được hoạch toán trong chi phí tổ chức đấy.
Chuyên gia Ngô Trí Long: Tôi thấy hầu như tất cả các công ty xăng dầu thế giới đều sử dụng công cụ phái sinh. Trong văn bản pháp quy về kinh doanh xăng dầu, chúng ta đều đề cập trong Nghị định 84, tiếp đến là Nghị định 83, nó vừa là công cụ đầu tư vừa là công cụ bảo hiểm. Nhưng tại sao một công cụ phổ biến hiện nay mà các doanh nghiệp lớn trên thế giới sử dụng để phòng ngừa rủi ro mà trong Nghị định 95, nghị định mới chưa đưa vào. Đây là một thiếu sót lớn, tôi nghĩ cần phải bổ sung.
Hiện nay các quy định văn bản về công cụ phái sinh chúng ta chưa đầy đủ vì còn mới, đặc biệt đối với kinh doanh xăng dầu thì chưa hoàn toàn có, cho nên Nghị định mới cần đưa thêm công cụ này, nghĩa là cho phép doanh nghiệp sử dụng công cụ phái sinh, phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Tổng Giám đốc hãng hàng không Bamboo Airways Lương Hoài Nam: Trước hết, hàng không mong muốn trong nghị định mới thay thế cho Nghị định 83 hiện nay về quản lý giá xăng dầu, những nội hàm về quản lý giá xăng dầu hàng không cần được đưa vào Nghị định mới để bảo đảm sự nhất quán đối với các loại xăng dầu trong đó có xăng dầu hàng không, sự nhất quán trong cách quản lý, cách tiếp cận của chúng ta để tránh trường hợp như hàng chục năm nay, tất cả các loại xăng dầu sản xuất đều được bình ổn giá, trong khi đầu ra được thả nổi theo cơ chế thị trường, theo cung cầu, theo cạnh tranh còn xăng dầu hàng không được thả nổi, là đối tượng bình ổn giá theo cơ chế giá trần. Chúng tôi cho rằng đây là cách tiếp cận thiếu tính nhất quán, cần sửa đổi trong Nghị định này
Thứ hai, trong Nghị định mới này, chúng ta cần đưa đủ nội hàm, quy định và cách hiểu về các sản phẩm phái sinh về xăng dầu để chúng ta thông về mặt tư tưởng, cách hiểu, quan điểm quản lý với sản phẩm phái sinh xăng dầu, để làm sao cho các doanh nghiệp, từ các kinh doanh xăng dầu đến các doanh nghiệp sử dụng xăng dầu có nền tảng pháp lý rõ ràng, đặc biệt an toàn để sử dụng các nghiệp vụ phái sinh cho việc bình ổn chi phí hoạt động của mình, tránh những rủi ro không đáng có với doanh nghiệp và các nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp
Công cụ phái sinh, tôi nghĩ giúp ích nhiều cho việc bình ổn chi phí xăng dầu cho doanh nghiệp rất lớn nếu như chúng ta sử dụng công cụ thị trường một cách hiệu quả.
Về sàn, theo tôi cần nhìn nhận theo 2 góc độ: Thứ nhất ai tham gia sàn đó, thứ 2 là sàn đó giao dịch những gì?
Tôi thấy điểm chung của mấy sàn tôi cho là hoạt động hiệu quả như cà phê, cao su, bất động sản. Đó là những mặt hàng chúng ta sản xuất rất nhiều ở Việt Nam và thậm chí xuất khẩu, chúng ta chi phối khá nhiều thị trường quốc tế.
Ví dụ, chúng ta đứng vị trí thứ 2 về xuất khẩu cà phê, cao su chúng ta cũng là nước xuất khẩu lớn, bất động sản ở Việt Nam chúng ta bán, đầu tư tại Việt Nam và tự làm. Điểm chung của các sàn theo tôi có thể phát huy là những thứ mà chúng ta sản xuất chung ở Việt Nam, tham gia vào chuỗi cung cấp toàn cầu; ở một góc độ nào đó mang tính chi phối ở thị trường quốc tế. Đối với những mặt hàng như thế, cơ hội thành công của sàn là có thể nhìn thấy.
Còn sàn xăng dầu, tôi hình dung nếu có thành lập chỉ là thực hiện giao dịch xăng dầu về vật chất, tôi không nghĩ các sản phẩm phái sinh giao dịch trên sàn xăng dầu. Bởi vì trên thế giới phái sinh xăng dầu chủ yếu trên thị trường tài chính, không giao dịch trên thị trường hàng hóa vật chất.
Nếu nói về xăng dầu vật chất chúng ta có 2 loại: Dầu thô chúng ta tham gia giao dịch quốc tế; còn dầu thành phẩm, nếu sản xuất ở Việt Nam chỉ có ở Dung Quất và Nghi Sơn, còn lại xăng dầu khác chúng ta nhập khẩu của mấy chục doanh nghiệp đầu mối.
Vậy với thị trường nhà sản xuất của Việt Nam chỉ có 2, còn lại nhập khẩu từ các nhà cung cấp ở nước ngoài thì có đủ để sàn hoạt động hay không? Cá nhân tôi thực sự chưa hiểu lắm và có những suy nghĩ nhất định. Tôi nghĩ Nghị định mới nên tập trung giải quyết tốt việc phái sinh xăng dầu trước, còn chuyện sàn thì phải tính tiếp, xem có cơ hội thành công hay không.
MC: Ở góc độ lập pháp, quan điểm của ông như thế nào về tính khả thi, tính hợp hiến, hợp pháp của nội dung đề xuất liên quan đến quy định về thành lập Sàn giao dịch xăng dầu cũng như quy định về công cụ bảo hiểm giá thông qua Sở GDHH trong Nghị định kinh doanh xăng dầu từ sự phân tích của các chuyên gia, hiệp hội nêu trên?
Đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường: Như vừa trao đổi thì rõ ràng chúng ta đã nhìn thấy vấn đề giao dịch về dầu thông qua sàn, rồi là công cụ phái sinh để thực hiện phòng ngừa rủi ro về biến động giá.
Đây là cái rất là phổ biến trên thế giới và ngay như chúng ta các cái doanh nghiệp mà tham gia vào cái đầu mối xăng dầu ấy thì cũng phải tham gia vào giao dịch trên các sàn xăng dầu thế giới. Và ở trong nước chúng ta thì cũng đã có các sàn giao dịch hàng hóa, chúng ta cũng đã làm đối với một số hàng hóa rất thành công.
Cho nên tôi cho rằng là chuyện mà hình thành các giao dịch qua sàn, điều này không quá là phải băn khoăn và tôi nghĩ rằng cái xu thế, những cái hàng hóa mà nó có các chuẩn mực của nó rồi thì giao dịch trên sàn nó sẽ là phổ biến đấy.
Điều đấy thì nó cho thấy rằng chúng ta nghĩ đến việc lập sàn giao dịch ở Việt Nam về xăng dầu, tôi nghĩ rằng là cũng không có cái gì là đáng, phải băn khoăn nhiều.
Tuy nhiên, vấn đề là tính chất sàn ấy như thế nào. Chúng ta định tổ chức một cái sàn giao dịch xăng dầu như là các sàn giao dịch xăng dầu thế giới, tức là nó phải có liên thông, liên thông giữa sản phẩm chúng ta với lại các cái sản phẩm của các nhà cung cấp thế giới và coi như là sàn giao dịch cho thế giới chứ không phải chỉ cho mấy nhà sản xuất với nhà cung cấp cho Việt Nam thì khi đấy chúng ta thành lập một sản giao dịch xăng dầu riêng.
Thế còn nếu như bây giờ chỉ để là giúp cho những nhà nhập khẩu xăng dầu về, những nhà phân phối giao dịch với nhau, trao đổi với nhau dễ hơn thì chúng ta có thể đưa qua các sàn điện tử và bây giờ chúng ta có các sàn giao dịch hàng hóa rồi thì chúng ta thông qua đó. Tôi nghĩ nó không có gì khó khăn, phức tạp.
Vì vậy, chúng ta phải tính đến mục tiêu của nó và tôi nghĩ rằng mục tiêu của chúng ta là ở hướng thứ hai, tức là chúng ta muốn để cho cái hàng hóa này, cho các việc buôn bán có thể dễ dàng trao đổi với nhau, gặp nhau dễ hơn, không phải là doanh nghiệp này phải liên hệ trực tiếp với doanh nghiệp kia rồi là thỏa thuận cả...
Tôi nghĩ rằng là như vậy thì sẽ tăng tính minh bạch, nó tăng khả năng để chúng ta thanh khoản cho các nhà cung cấp và khả năng tiếp cận cho những cái nhà phân phối. Tôi nghĩ rằng là cái đấy là cái nên có.
Và cái này thì đứng về mặt pháp lý thì không có pháp luật nào cấm cả, chỉ có điều là chúng ta phải có cơ chế để làm sao đưa các sản phẩm xăng dầu này vào cái sản đó thì phải xây dựng cơ chế cho nó.
Tuy nhiên, sàn này có thành công hay không thì nó lại phụ thuộc vào chuyện là chúng ta có cho phép các nhà phân phối này được mua bán tự do hay không, chứ còn nếu chúng ta định ấn định là ông này chỉ được mua của ông kia, ông không được bán cho nhau thì sàn này lập ra vô nghĩa, nó không có nghĩa gì cả.
Sàn phải để tất cả mọi người tham gia vào, phải minh bạch tức là hoàn hảo, hoàn hảo là trăm người bán vạn người mua. Tôi muốn mua của ai cũng được, muốn bán cho ai cũng được, muốn mua bao nhiêu cũng được, thì khi đấy sàn mới có ý nghĩa.
Cho nên tôi đồng tình với cái chuyện là chúng ta nên có sàn nhưng gắn liền với nó là phải cho phép được giao dịch mua bán tự do và thậm chí tôi nghĩ rằng là đến mức là chúng ta cũng phải bàn đến xem, thậm chí đến người bán lẻ, người ta có được quyền mua của nhiều nhà cung cấp hay không, chứ không phải là cứ một nhà bán lẻ chỉ được mua của một nhà cung cấp. Không nên nghĩ như thế. Nếu như người ta đủ điều kiện để khẳng định rằng họ có hệ thống phân phối đảm bảo rằng là nguồn xăng dầu không bị pha trộn, minh bạch, quản lý được chất lượng.
Tôi cho rằng từ chỗ đó sẽ dẫn đến khuyến khích các nhà đầu mối phân phối sẽ tìm các công cụ để làm thế nào mình sẽ dự trữ xăng dầu tốt nhất và khi đó dù giá xăng dầu thế giới có thể biến động nhưng họ vẫn có có thể bán ra với một giá thấp hơn và có sự cạnh tranh với những nhà phân phối khác và như vậy thì nó mới tạo ra cạnh tranh để giá xăng đầu chúng ta thấp hơn chứ nó không đẩy giá lên cao ngay khi giá thế giới tăng.
Tất nhiên khi nói đến sàn thì lại phải đi kèm với vấn đề phòng ngừa rủi ro thông qua công cụ về phái sinh. Và sàn chúng ta vừa nói là chỉ giao dịch trong nước với nhau thôi thì chúng ta không thể dùng chỉ số của sản phẩm hàng hóa trong nước này để dùng cho công cụ phái sinh được.
Bởi vì như thế nó không có ý nghĩa, cho nên là công vụ phái sinh là người ta phải sử dụng chỉ số trên sàn quốc tế và hiện nay thì cũng không ai cấm.
Tôi xin nói rằng là luật pháp hiện nay không cấm, chúng ta đã phái sinh về các chỉ số xăng dầu này. Chúng ta hoàn toàn được làm, chỉ có điều các doanh nghiệp không làm.
Đây là vấn đề chúng ta cần phải tính đến, bởi vì là nguyên tắc đầu tư phái sinh là đầu tư tài chính, nó không tính vào trong giá cả. Ví dụ chẳng hạn giá chứng khoán phái sinh nó không tính vào chỉ số giá chứng khoán, nhưng gì chăng nữa dù anh có tính vào đầu tư tài chính chăng nữa thì cuối cùng nó cũng sẽ tính đến cấu thành chi phí. Cho nên điều cơ bản nhất là cấu thành chi phí khi xác định giá bán giảm, anh có được tính vào phần trích lập lợi nhuận không?
Tôi cho rằng đấy là vấn đề, mà nếu chúng ta có một cái cơ chế để xác định giá bán tốt thì khi đấy người ta sẽ sẵn sàng phái sinh và chúng ta sẽ tạo ra nguồn lợi hay là nguồn thiệt hại về mặt quỹ đầu tư tài chính, nhưng nó lại mang lại lợi ích cho người ta về mặt kinh doanh xăng dầu, thì khi đó người ta sẽ sẵn sàng làm.
Vì vậy, tôi cho rằng chúng ta cũng cần phải tính đến những cái sự cởi mở đó và chính cái điều đó thì chúng ta đang sử dụng được cái công cụ thị trường, kể cả thị trường trong nước và thị trường thế giới để giúp cho thị trường xăng dầu chúng ta nó sẽ phát triển tốt hơn.
Chủ tịch Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam Bùi Ngọc Bảo: Tôi xin có một bổ sung thêm là hầu hết các sàn giao dịch dầu thành công thì có một thực tế là 95% các giao dịch thông qua đó là không có hàng hóa, tức là giao dịch khống hết, trên toàn thế giới này chỉ chừng độ khoảng 5% là giao dịch là có mua thực thôi.
Thế nên chúng ta phải nhìn nhận, tiên lượng trước những vấn đề đó, đúng như anh Cường nói về mặt cơ chế.
Thế còn nếu mà xác định là để cho giao dịch trong nước cho công khai, minh bạch thì đấy là điều mà chúng ta cần phải nghiên cứu, phải tạo ra cho nó một cái cơ chế, tạo ra cho nó một cái sinh lực thì cái đấy nó sẽ giúp cho thị trường có thể minh bạch hơn, việc quản lý đối với những hệ thống phân phối cũng sẽ dễ ràng hơn.
Tôi ví dụ như trong Nghị định mới đang xây dựng có cho phép các nhà bán lẻ lựa chọn nhiều nhà cung cấp, như vậy là rất cởi mở rồi.
MC. Các đại biểu có thêm kiến nghị, bổ sung, đề xuất trong việc xây dựng dự thảo về Nghị định mới về kinh doanh xăng dầu để góp phần hoàn thiện hơn nữa các cơ chế, chính sách cho sự phát triển hiệu quả, minh bạch, bền vững của thị trường trong thời gian tới không?
Ông Ngô Trí Long: Các phương pháp giao dịch bằng các hợp đồng, đặc biệt hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn, công cụ phổ biến hiện nay mà các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu sử dụng thì quan điểm cá nhân tôi cũng như tất cả các vị đại biểu là cố gắng nên đưa vào Nghị định có tính chất văn bản pháp lý.
Đồng thời phải có những chỉ dẫn rất cụ thể, đặc biệt đối với công tác hạch toán, kế toán. Đối với Bộ Tài chính xem xét có nên đưa vào hoạt động đầu tư tài chính hay không? Hay đưa vào cái nào cho hợp lý.
Đối với doanh nghiệp tư nhân lời ăn lỗ chịu thì họ tự chịu, nhưng đối với doanh nghiệp Nhà nước mà không có văn bản pháp quy rõ ràng thì khi xảy ra rủi ro thì quy cho người làm đó, mặc dù động cơ thái độ là hoàn toàn đúng và chuẩn xác.
Vấn đề tiếp theo là có nên lập sàn hàng hóa riêng hay không thì đây là vấn đề rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi về thời gian nghiên cứu.
Trước mắt, trong giai đoạn hiện nay chúng ta đã thí điểm, để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm về giá xăng dầu cũng như về đầu tư, theo quan điểm của tôi thì vẫn tiếp tục nên cho phép giao dịch liên thông các mặt hàng năng lượng tại Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam như đã làm. Đồng thời giúp cho các doanh nghiệp có công cụ về đầu tư cũng như công cụ về bảo hiểm rủi ro giá xăng dầu.
Ông Bùi Ngọc Bảo: Tôi mong các cơ quan quản lý Nhà nước, đẩy nhanh quá trình xây dựng và hoàn thiện. Một trong những quyết định quan trọng mang tính mấu chốt quyết định thành công của các Nghị định thì tôi cho rằng hãy trả lại những nguyên lý, nguyên tắc trong cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước, trước hết là công thức giá phải tính đầy đủ.
Thứ nhất là nên theo thông lệ quốc tế, chi phí không nên bám vào thực tế của doanh nghiệp mà theo chuẩn mực có thể 15% có… để cho doanh nghiệp tự quyết định.
Thứ 3 tôi cho rất là quan trọng, chúng ta không nên đưa vào xây dựng lợi nhuận định mức. Đã thị trường, định mức lại sao lại cộng vào đấy, nó rất phản cảm. Làm kinh doanh lỗ phải chịu, lợi nhuận tiết giảm chi phí thì nó nằm ở trong đấy. Giả sử quy định luôn là chi phí lưu thông, chi phí hoạt động kinh doanh là 15% trên giá Nhà nước quy định, còn lại lợi nhuận và các khoản khác doanh nghiệp làm lỗ, không cạnh tranh được thì ra khỏi thị trường, mức đấy là mức Nhà nước quản lý được rồi. Trên mức đó thì chúng ta sẽ áp dụng những chế tài, đấy là cái thứ nhất.
Thứ hai là giảm thiểu những quy định mang tính chất hành chính đối với các doanh nghiệp, chúng ta có quá nhiều quy định, làm sao để doanh nghiệp hiểu được quyền của doanh nghiệp, quản lý thị trường để người tiêu dùng được hưởng lợi và các quy định khác.
Về dịch vụ đối với người dân cũng phải đánh giá tôn trọng chất lượng của dịch vụ để người dân lựa chọn. Rất mong trong Nghị định này "trường tồn hơn", vừa đảm bảo được sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực rất nhạy cảm này, vừa đảm bảo được tính chủ động của doanh nghiệp, quyền quyết định của doanh nghiệp, vừa đảm bảo được sự lựa chọn của người tiêu dùng đối với những sản phẩm có sự quản lý đấy mà kinh doanh.
Đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường: Tôi rất mừng tinh thần sửa đổi Nghị định này, chúng ta đang hướng theo thị trường. Tôi mong muốn chúng ta thực sự tách bạch, tức là cái gì là thị trường, cái gì là công cụ của Nhà nước, không lập lờ.
Chúng ta phải đưa ra công thức định giá để Nhà nước quản lý khi doanh nghiệp kinh doanh tạo ra cái giá để có yếu tố độc quyền, yếu tố sinh lợi thì công cụ quản lý Nhà nước chúng ta sẽ quản lý điều đấy.
Do vậy, tôi đề nghị công cụ thuế phải xác định rất rõ điều tiết trên cơ sở hoạt động giá của doanh nghiệp đưa ra. Với công cụ thuế như thế thì sẽ hướng doanh nghiệp không bao giờ đưa ra mức giá để hưởng lợi ích, lợi nhuận cao và độc quyền mà luôn luôn phải theo xu hướng đưa ra mức giá thấp nhưng cung cấp được lượng hàng hóa nhiều thì sẽ sinh lời. Như vậy sinh lời cho doanh nghiệp mà mức thuế thấp thì mang lại lợi ích cho người dân nhiều. Tôi cho rằng tách bạch ra thì từ đó sẽ đảm bảo được hiệu quả quản lý tốt hơn.
Và tiếp theo là bình ổn xăng dầu, chúng ta đang đẩy trách nhiệm này nằm về phía nhà cung cấp, đang về phía những người tham gia thị trường, nhưng trong bình ổn này tôi cho rằng Nhà nước sẽ có vai trò hết sức lớn đặc biệt vấn đề liên quan đến dự trữ quốc gia và dự trữ của bản thân cá nhân công ty.
Nếu như chúng ta không có được nguồn dự trữ đủ sức mạnh thì tôi cho rằng chúng ta luôn luôn bị động và rất khó bình ổn được cho nên dự trữ rất quan trọng, đặc biệt đất nước chúng ta có 7% sản xuất… cho nên kèm theo đó phải có các cơ chế như các công ty kinh doanh chuyên về các kho để dự trữ, kể cả các kho vận quốc tế, đấy là các yêu tố vô cùng quan trọng để chúng ta đảm bảo được an ninh năng lượng.
Ông Phạm Văn Bình: Hiện nay Bộ Công Thương đang được Chính phủ giao chủ trì xây dựng Nghị định mới để thay thế những Nghị định hiện nay. Trong thời gian vừa qua Cục Quản lý giá cũng đã thường xuyên phối hợp và có ý kiến góp ý để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Nghị định này.
Tôi hy vọng, Bộ Công Thương tiếp tục trên cơ sở những ý kiến của các chuyên gia và tiếp tục nghiên cứu để có những đánh giá một cách toàn diện làm sao để việc xây dựng này phải đồng bộ với những quy định của pháp luật liên quan cũng như là đánh giá rõ, nhất là những chính sách mới mà chúng ta đưa vào để tính khả thi phù hợp với xu hướng hiện nay.
Ông Ngô Trí Long: Mặt hàng kinh doanh xăng dầu là mặt hàng kinh doanh có điều kiện cho nên điều kiện kinh doanh phải thật rõ ràng, tránh hiện tượng gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Trong quá trình xây dựng Nghị định đề nghị các cơ quan chức năng của Chính phủ phải rất thận trọng và xem xét khách quan, tham vấn tất cả cộng đồng, mạng xã hội. Một trong những vấn đề mấu chốt là điều kiện kinh doanh đã hợp lý hay chưa? Hệ thống kinh doanh đã hợp lý chưa?
Vấn đề cốt lõi hiện nay tạo nguồn cung là cơ chế định giá. Một doanh nghiệp kinh doanh muốn có lãi hay không thì căn cứ vào giá, mà trong quy định tùy thuộc vào điều kiện của thị trường để chúng ta quyết định phương thức quản lý giá như thế nào.
Một trong những tiêu chí để công nhận nền kinh tế thị trường kinh tế của Châu Âu và Châu Mỹ tuy có 5, 6 cái khác nhau nhưng tiêu chuẩn đầu tiên quan trọng là tự do hóa giá cả. Tự do hóa giá cả không có nghĩa là tất cả mọi thị trường đều do thị trường quyết định, không phải như vậy. Mà tùy theo từng loại thị trường một mà Nhà nước có phương thức quản lý giá khác nhau.
Riêng đối với thị trường xăng dầu hiện nay, còn có những doanh nghiệp giữ vị trí thống lĩnh thì buộc Nhà nước phải quy định, đây là quy định của Quốc tế, thông lệ Quốc tế, đó là quy luật của thị trường. Trong bối cảnh, có những doanh nghiệp thống lĩnh thị trường thì Nhà nước phải quy định giá áp trần cho hợp lý./.