• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

“Bài ca không quên”

(Chinhphu.vn) - “Ca khúc ấy chính là lời nhắc nhở tôi cùng những đồng đội may mắn được trở về sống trong hòa bình hãy sống xứng đáng với những người đã ngã xuống vì nền độc lập dân tộc”, nhạc sỹ quân đội Phạm Minh Tuấn nhớ lại những kí ức hào hùng, từng lưng đeo ba lô, vai mang súng vào sinh ra tử trên khắp chiến trường miền Nam…

26/07/2011 14:19

Nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn (trái) và nhạc sĩ Hồng Đăng - Ảnh Chinhphu.vn

PV: Theo ông điều gì tạo nên sức sống mãnh liệt cho những ca khúc mang đề tài chiến tranh cách mạng, trong đó có những ca khúc nổi tiếng của ông như “Bài ca không quên”, “Đất nước”, “Qua sông”, “Dấu chân phía trước”…?

Nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn: Đơn giản bởi vì những ca khúc ấy đã nói lên được những điều chân thực nhất về con người Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến giữ nước gần thế kỉ. Mỗi khi hát những ca khúc này, mỗi con người Việt Nam đều thấy ở đó có hình dáng thân thương của mẹ, của cha, quê hương xứ sở và của chính bản thân ta.

Việt Nam là dân tộc với những con người nhỏ bé nhưng kiên cường, bất khuất với tâm hồn nhân văn; một dân tộc có những bà mẹ Việt Nam anh hùng lặng lẽ khóc thầm tiễn chồng con lên đường bảo vệ Tổ quốc; những chàng trai, cô gái sẵn sàng dâng hiến tuổi thanh xuân và cuộc đời cho dân tộc… Đó là những điều chân thực mà lịch sử không thể nào xuyên tạc.

Có thể nói, dù bất cứ đâu, lúc nào, trong chiến tranh hay trong hòa bình tâm hồn Việt vẫn không thể nào thay đổi và những nhạc sĩ đã bắt được cái hồn chất Việt ấy đưa vào trong những ca khúc của mình. Đó là lí do tại sao mà các ca khúc mang đè tài chiến tranh, cách mạng lại có sức sống lâu bền trong lòng nhiều thế hệ khán giả tới vậy!

“Bài ca không quên” là một nhạc phẩm rất thành công của nhạc sĩ, ông có thể chia sẻ đôi điều về hoàn cảnh ra đời của ca khúc?

Năm 1981, khi cố Đạo diễn Nguyễn Văn Thông làm bộ phim “Bài ca không quên” có mời tôi viết ca khúc cho nhạc phim. Sau khi đọc kịch bản, tôi đã nhận lời và ngay sau đó nhanh chóng hoàn thành ca khúc“Bài ca không quên”.

Sau khi bộ phim được trình chiếu, ca khúc trong nhạc phim đã khiến cho nhiều người xem xúc động và bật khóc, trong đó có chính vợ chồng tôi. Từ đó đến nay, ca khúc “Bài ca không quên” đã tách ra sống một cuộc đời riêng với tác phẩm điện ảnh và trở thành một bài ca đi cùng năm tháng.

Với“Bài ca không quên” ấy có khiến ông nhớ tới dấu ấn sâu sắc nào không thể nào quên trong cuộc đời mình?

Trong suốt 15 năm tham gia cách mạng, tôi đã cùng đồng đội chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Vì vậy có quá nhiều kỉ niệm vui buồn xảy tới với tôi trong đó có lẽ sâu sắc nhất vẫn là những mất mát, hi sinh.

 Năm 1964, tôi có một đứa con đầu lòng lúc ấy mới được 4 tháng tuổi, trong một lần hành quân, cả đoàn lọt vào ổ phục kích của giặc, lúc ấy vì sự an toàn của mấy chục anh em chiến sĩ nên khi con tôi khóc, vợ tôi đã phải ôm cháu vào lòng thật chặt cho giặc không phát hiện ra tiếng khóc. Khi trận càn qua đi, cả đoàn đã an toàn thì con tôi đã ngừng thở, nỗi đau mất con khiến một thời gian sau đó rất lâu vợ chồng tôi mới nguôi ngoai.

Không chỉ mất con, tôi còn mất đi rất nhiều người bạn, người đồng đội trong đó có người đồng đội cũng là người thầy âm nhạc - nhạc sĩ Hoàng Việt.

 Đó là năm 1966, anh Hoàng Việt cùng rất nhiều văn nghệ sĩ khác từ Bắc điều động vào Nam để chuẩn bị cho chiến dịch tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Khi ấy tôi là người dẫn đường cho anh Hoàng Việt tới chiến trường Đồng bằng Sông Cửu Long để viết bản giao hưởng số hai: “Cửu Long giang”.

 Hơn một tháng trời hai anh em chúng tôi thân thiết như ruột thịt, tôi không sao quên được trên những chặng đường hành quân, chính tay tôi chuẩn bị đồ, giúp anh đeo quân trang, quân dụng còn anh lại dạy tôi những bài học về âm nhạc. …

Sau khi đưa anh tới cứ an toàn hai anh em chia tay nhau hẹn ngày thắng lợi sẽ gặp lại nhưng ít lâu sau đó, tôi nghe được hung tin: trong trận càn ác liệt ngày 31/12/1967 tại Mỹ Thuận, Cái Bè, Mỹ Tho (nay là Tiền Giang), anh đã hi sinh khi quả bom của giặc đã làm nổ tung hầm của anh. Ca khúc cuối cùng người ta tìm thấy anh sáng tác trước khi hi sinh tên là “Đêm trăng qua đất Kiến Tường”.

Trong suốt những năm tháng chiến tranh ấy, điều đáng quý nhất với những người lính như nhạc sỹ là gì, thưa ông?

Trong 15 năm làm người lính, tôi và đồng đội mình đã trải qua biết bao nhiêu ngày đêm hành quân vất vả qua những ngọn núi, cánh đồng, những trận càn quét, những trận đánh ác liệt với quân giặc… Trong những ngày tháng gian khổ ấy, dù cái chết cận kề nhưng những người lính chúng tôi đều sống với nhau bằng một tình cảm chân chất, sáng trong hết mực, không có sự tư lợi nào cho bản thân, ai nấy đều tin tưởng vào tương lai cách mạng và lí tưởng xả thân vì độc lập, tự do của dân tộc. Chiến tranh đã qua đi gây cho con người ta nhiều mất mát hi sinh và chẳng ai muốn nó quay trở lại nhưng có điều, trong chiến tranh con người như được tôi rèn và tìm thấy giá trị đích thực của bản thân mình.

Đối với ca khúc “Đất nước”, phải chăng hình tượng người mẹ Việt Nam anh hùng mà ông nhắc tới trong ca khúc này là hình ảnh một bà mẹ có thực ngoài đời mà ông từng gặp để rồi tạo nên cái tứ cho ca khúc của mình?

Năm 1984, trên tờ Sài Gòn Giải phóng tôi có vô tình đọc được bài thơ “Đất nước tôi” của nhà thơ Tạ Hữu Yên ngợi ca những bà mẹ Việt Nam trong chiến tranh. Ngay những vần thơ đầu tiên đã gây cho tôi những xúc động mạnh mẽ, tôi đã nảy ra ý phổ nhạc cho bài thơ ấy thế nhưng đề tài này đã có nhiều nhạc sĩ viết thành công mà ca khúc tôi phổ nhạc lại vẫn chưa nói hết cái hay mà anh Tạ Hữu Yên muốn gửi gắm, tôi liền cất vào tủ.  

Đến năm 1985, nhân kỉ niệm 10 năm giải phóng miền Nam, tôi được về dự nhiều chương trình gặp gỡ với các bà mẹ Việt Nam anh hùng. Cảm xúc của một người nhạc sĩ khiến tôi tiếp tục hoàn thành nốt ca khúc còn dang dở của một năm trước kia. Ngay sau đó, cố nghệ sĩ Ngọc Tân đã giúp tôi trình bày thành công với một sự xúc động mạnh mẽ tới khán thính giả bấy giờ.

Hình ảnh bà mẹ trong ca khúc “Đất nước” chính là được cảm xúc từ người mẹ thân sinh ra tôi - mang trong mình đức tính cao quý của hàng triệu bà mẹ Việt Nam đã nuốt nước mắt tiễn người chồng người con lên đường bảo vệ Tổ quốc, dù họ biết “ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ”.

Hình ảnh bà mẹ Việt Nam anh hùng chính là hình ảnh của đất nước 4000 năm lịch sử trong đau thương nhưng vẫn rạng ngời những đức tính quí báu.

Phải chăng, những tình cảm sâu sắc ấy chính là động lực để ông tiếp tục cống hiến những tác phẩm để đời cho nền nghệ thuật dân tộc?

Tôi là một người lính, may mắn được trở về sau chiến tranh. Khi đất nước bị xâm lăng, chúng tôi cầm súng để bảo vệ dân tộc, khi đất nước hòa bình, tôi lại tiếp tục cầm bút để xây dựng cuộc sống mới.

Vì vậy dù chiến tranh đã qua nhưng những ca khúc như: “Qua sông”, “Bài ca không quên”, “Đất nước”… mà tôi sáng tác chính là lời nhắc nhở bản thân tôi và cùng những người đồng đội năm xưa hãy sống xứng đáng với những người đã cống hiến cuộc đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc.

Xin cám ơn nhạc sĩ!

Sao Chi