Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Cơ quan Thống kê của EU (Eurostat) vừa công bố nợ công trong Khu vực đồng Euro (Eurozone) đang tăng với tốc độ nguy hiểm. Tổng nợ công của 17 nước thành viên Eurozone hiện đã đạt mức cao kỷ lục 8.750 tỷ euro (tương đương 11.400 tỷ USD), tăng 4% so với cùng kỳ năm 2012.
Cuộc khủng hoảng nợ công tại Eurozone đã bước sang năm thứ 5, là cuộc khủng hoảng kéo dài nhất trong lịch sử kinh tế thế giới và vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc.
Theo giới phân tích, khủng hoảng diễn ra ngay sau giai đoạn bùng nổ tín dụng, lãi suất cho trích lập rủi ro thấp, dư thừa thanh khoản, đòn bẩy tài chính cao và bong bóng bất động sản. Một nguyên nhân khác là tăng chi hoặc giảm thu ngân sách thiếu kiểm soát của các chính phủ. Xét rộng hơn, việc này còn do chính sách tài khóa của các nước chưa hài hòa và cơ chế phối hợp ứng phó còn bất đồng.
Hy Lạp, quốc gia đầu tiên của Eurozone đánh mất lòng tin của giới đầu tư năm 2009, dẫn đầu danh sách với mức nợ công tương đương 160,5% GDP, tăng 24% so với 1 năm trước. Tháng 3/2012, Hy Lạp đã được các chủ nợ xóa hơn 100 tỷ euro và nhận thêm 2 chương trình hỗ trợ quốc tế tổng giá trị 240 tỷ USD để tập trung xử lý vấn đề ngân sách. Tuy nhiên, sau một năm chật vật với những biện pháp khắc khổ, Hy Lạp lại lập kỷ lục đáng thất vọng nhất trong khu vực khi các con số ở mức báo động tiếp tục tăng cao. Theo dự báo của Ủy ban châu Âu, trong năm nay, nợ công Hy Lạp có thể tăng lên mức chưa từng có là 175%.
Sau Hy Lạp là Italia - nền kinh tế từng đứng thứ 7 thế giới, lâm vào tình trạng suy thoái từ giữa năm 2011, với gánh nặng nợ nần lên tới 130,3% GDP. Tuy không cần đến gói cứu trợ như Hy Lạp và các nước khác, nhưng Italia cũng phải thi hành một loạt biện pháp nhằm củng cố lòng tin của giới đầu tư để duy trì khoản vay 2.000 tỷ euro từ họ.
Tiếp theo trong danh sách các nước có nợ công tăng rất cao là Bồ Đào Nha 127,2%, tăng 14,9% so với năm ngoái, Ireland 125,1% (tăng 18,3%), và Tây Ban Nha 88,2% (tăng 15,2%). Chỉ có hai trong số các quốc gia khu vực đồng euro báo cáo giảm nợ là Đức - nền kinh tế lớn nhất khu vực - và Estonia.
Khủng hoảng nợ Mỹ Latin thập niên 80 được gọi là "Thập kỷ mất mát" và đã manh nha từ những năm 1970. Trong giai đoạn đó, Brazil, Argentina và Mexico phát triển khá mạnh, chủ yếu do vay nước ngoài quy mô lớn để nâng cấp công nghiệp trong nước và cải thiện cơ sở hạ tầng.
Đến đầu thập niên 80, các nước Mỹ Latin bắt đầu gặp khó khăn trong việc trả nợ. Kinh tế thế giới suy thoái những năm 1979-1980 đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng và xuất khẩu của các nước này. Một nguyên nhân khác là các khoản vay bị sử dụng thiếu thận trọng và có liên quan đến tham nhũng.
Cuộc khủng hoảng nợ tại đây bắt đầu vào tháng 8/1982 khi Mexico tuyên bố vỡ nợ. Tiếp đó là Brazil, Venezuela, Argentina và Bolivia.
Trong suốt những năm đầu của khủng hoảng, tăng trưởng GDP các nước trong khu vực chỉ còn hơn 2%. Để có tiền trả nợ, họ đã cầu viện những tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB). Đổi lại, các nước phải chấp nhận thắt lưng buộc bụng, phá giá nội tệ hay tự do hóa thương mại để cải thiện nền tài chính. Hậu quả là kinh tế tăng trưởng trì trệ, thu nhập bình quân đầu người giảm và chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng. Đến tận đầu thập niên 90, khủng hoảng ở Mỹ Latin mới lắng dịu.
Đến lúc đó, hầu hết các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới đều đã từ chối hoặc giảm cho vay các nước châu Mỹ Latin khác. Trong khi đó, các khoản nợ vay của chính phủ các nước lại chủ yếu là ngắn hạn và các nước gặp khó khăn trong thanh toán nợ khi các tổ chức cho vay từ chối gia hạn các khoản vay.
Tại Đông Á và Đông Nam Á, khủng hoảng đến ngay sau thời kỳ tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Nguyên nhân cũng là bùng nổ tín dụng từ các nguồn vốn nước ngoài được sử dụng thiếu kiểm soát khi phần lớn đổ vào bất động sản và chứng khoán.
Khủng hoảng tài chính Đông Á chính thức bắt đầu từ tháng 7/1997 với sự sụp đổ của đồng bath Thái Lan do các dòng vốn ồ ạt rút mạnh khỏi quốc gia này. Tại thời điểm đó, Thái Lan đã có gánh nặng nợ nước ngoài lớn khiến quốc gia này lâm vào tình trạng vỡ nợ, phá sản trước khi đồng bath sụp đổ.
Hiệu ứng lan tỏa khiến nhà đầu tư phương Tây bất ngờ rút mạnh vốn, tiền tệ các quốc gia khác trong khu vực lần lượt bị phá giá. Hàng loạt tập đoàn và công ty, đặc biệt về bất động sản, vỡ nợ. Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Khủng hoảng tài chính nhanh chóng chuyển sang suy thoái kinh tế trầm trọng. Đồng tiền các quốc gia bị phá giá, lạm phát gia tăng, các tổ chức tài chính và công ty phá sản, nợ xấu lên kỷ lục, tăng trưởng kinh tế suy giảm và thất nghiệp gia tăng. GDP của Indonesia giảm tới 15% trong vòng một năm, Thái Lan và Malaysia cũng giảm xấp xỉ 10%, trong khi Hàn Quốc giảm 3,8% trong quý đầu của năm 1998.
IMF đã phải khởi động chương trình cứu trợ trị giá 36 tỷ USD cuối năm 1997 để ổn định đồng tiền của các nước bị tác động mạnh nhất bởi khủng hoảng. Đổi lại, các nước thắt chặt tiền tệ, tái cấu trúc hệ thống tài chính hoặc giảm can thiệp vào kinh tế thị trường. Đến đầu năm 1999, khu vực này mới dần hồi phục.
Điểm chung nhất của 3 cuộc khủng hoảng nợ công là các chính phủ đã vay nợ quá mức để chi tiêu, kể cả đầu tư, trong giai đoạn phát triển mạnh nhất của nền kinh tế. Đến khi nền kinh tế gặp trục trặc tại một nước nào đó, đã xảy ra phản ứng dây chuyền gây đổ vỡ hàng hoạt.
Đây là bài học mà các nền kinh tế cần phải ghi nhận để cảnh tỉnh./.
Nguyễn Chiến