Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Vũ Hoàng Quỳnh, 228 Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội; quynhrubi@gmail.com
Việt Nam vừa gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chúng ta sẽ có “lịch trình” như thế nào để người dân thấy rõ được “hình ảnh” và hiệu quả của việc gia nhập WTO? Chúng ta sẽ có biện pháp như thế nào để phát triển nguồn nhân lực cũng như phát triển nền kinh tế của chúng ta. Và biện pháp đó từ khi có kế hoạch đến khi thực hiện mất khoảng thời gian là bao lâu?
Trả lời:
Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên WTO, Hội nghị Trung ương IV Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa X (tháng 1/2007) đã ra Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững khi là thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới. Sau đó, tại Phiên họp thường kỳ tháng 1/2007, Chính phủ đã thảo luận Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết nói trên. Để chủ động hội nhập, tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức, Chính phủ triển khai đồng bộ 12 nhiệm vụ cơ bản, trong đó trước mắt chú trọng:
- Hoàn thiện các thể chế phù hợp với cơ chế thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh;
- Đẩy mạnh cải cách hành chính;
- Tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực;
- Thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng kết cấu hạ tầng của đất nước;
- Tăng cường công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Trên thực tế, trong những năm qua, chúng ta đã tuyên truyền rộng rãi về hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực qua các phương tiện thông tin đại chúng, các hội thảo, các lớp tập huấn, các chương trình giảng dạy… Toàn bộ các văn kiện gia nhập WTO, các cam kết về hàng hóa và dịch vụ đã được công bố rộng rãi qua các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là mạng internet.
Về phát triển nguồn nhân lực, hiện nay Chính phủ đang xây dựng Đề án phát triển nguồn nhân lực, trong đó tập trung vào các vấn đề (i) Đào tạo chuyên gia kinh tế, pháp luật trong quản lý nhà nước; (ii) Đào tạo đội ngũ giáo viên đủ trình độ, năng lực chuyên môn và đạo đức; đảm bảo nội dung đào tạo liên thông với quốc tế; (iii) Đào tạo đội ngũ doanh nhân nắm vững luật pháp, tập quán quốc tế; đào tạo đội ngũ quản lý, điều hành, marketing; (iv) Nâng cao trình độ của đội ngũ công nhân kỹ thuật đủ đáp ứng cho phát triển sản xuất công nghiệp.
Về thời gian thực hiện các giải pháp, chính sách trên: Đây là các chương trình, chính sách lớn, chiến lược, vừa có tính chất cấp bách, vừa lâu dài. Chính phủ đã và đang chỉ đạo triển khai thực hiện; lồng ghép trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm và 5 năm 2006-2010. Đồng thời những công việc có tính chất dài hạn Chính phủ sẽ chỉ đạo đưa vào trong chiến lược. Trong đó, có những việc chúng ta đã và đang làm như ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với các cam kết quốc tế, thực hiện mở cửa thị trường theo lộ trình cam kết… Chính phủ có trách nhiệm theo dõi, đánh giá tình hình tổ chức thực hiện, định kỳ báo cáo kết quả trong Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm.
Lê Văn Lực, 398/4a khu phố 2, P.BHHòa A, Quận Bình Tân, TP.HCM; lucducsinh@yahoo.com.vn
Định hướng phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010 với một số chỉ tiêu cụ thể Việt nam cần đạt được? Trước mắt, Chính phủ có chiến lược phát triển ra sao đối với một số lĩnh vực như: thị trường chứng khoán, công nghiệp ô tô, phát triển kinh tế đảo...
Trả lời:
(1) - Định hướng phát triển kinh tế- xã hội thể hiện rõ trong mục tiêu và các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội chủ yếu đến năm 2010 đã được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua như sau:
Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là phải: “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Tiếp tục củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”.
Từ định hướng và mục tiêu phát triển trên đã cụ thể hóa thành một số các chỉ tiêu cụ thể trên cơ sở đảm bảo sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững theo 3 trục: kinh tế- xã hội - môi trường mà Việt Nam cần đạt được đến năm 2010 như:
a) Về kinh tế:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn 2,1 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng GDP bình quân trong 5 năm 2006-2010 đạt 7,5-8%, phấn đấu đạt trên 8%. GDP bình quân đầu người khoảng 1.050-1.100 USD.
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm.
Vốn đầu tư toàn xã hội chiếm 40% GDP.
b) Về xã hội:
- Tốc độ phát triển dân số khoảng 1,14%.
- Lao động nông nghiệp chiếm dưới 50% lao động xã hội.
- Tạo việc làm cho trên cho trên 8 triệu lao động; tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị dưới 5%.
- Tỷ lệ hộ nghèo còn 10-11%.
- Hoàn thành phổ cập trung học cơ sở; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40% tổng lao động xã hội.
- Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi xuống dưới 20%.
c) Về môi trường:
- Tỷ lệ che phủ rừng 42-43%.
Tỷ lệ dân cư được sử dụng nước sạch ở đô thị là 95%, ở nông thôn là 75%.
Tỷ lệ các cơ sở sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, xử lý chất thải là 100%; tỷ lệ các cơ sở sản xuất đạt tiêu chuẩn môi trường là trên 50%, xây dựng hệ thống xử lý nước thải tại 100% số đô thị loại 3 trở lên, 50% số đô thị loại 4 và tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất; 80%- 90% chất thải rắn, 100% chất thải y tế thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường.
(2) Về chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2010
- Tập trung đẩy mạnh phát triển thị trường về quy mô và chất lượng hoạt động trên cơ sở hoàn thiện mô hình tổ chức thị trường để TTCK thật sự đóng vai trò là kênh huy động vốn trung dài hạn quan trọng của nền kinh tế, góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống thị trường tài chính ở Việt Nam. Phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu niêm yết đạt khoảng 30-40% GDP vào năm 2010 (hiện nay khoảng 20% GDP). Phát triển TTCK gắn với phát triển, hoàn thiện thị trường tài chính; thúc đẩy chuyển đổi, sắp xếp lại DNNN và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần. Hoàn thiện và mở rộng phạm vi hoạt động của TTCK có tổ chức; từng bước thu hẹp TTCK tự do nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư.
(3) Về Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020:
- Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 tại Quyết định số 177/2004/QĐ-TTg ngày 05/10/2004.
- Mục tiêu của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam là tập trung chủ yếu đáp ứng nhu cầu trong nước về các loại xe thông dụng; xe chuyên dùng. Đồng thời, lựa chọn một số sản phẩm (phụ tùng hoặc cấu kiện ô tô) để sản xuất tại Việt Nam với số lượng lớn phục vụ lắp ráp ô tô trong nước và xuất khẩu trên cơ sở lựa chọn được đối tác chiến lược nước ngoài để có sự phân công trong sản xuất.
Lý Quốc Vũ; Sinh viên; 72 Nguyễn Đức Cảnh, Buôn Mê Thuột; naphaluan84@yahoo.com
Chính phủ có chính sách như thế nào đối với các ngành kinh tế từ trước tới nay đã được bảo hộ nhưng hiệu quả phát triển lại không cao?
Trả lời:
- Việt Nam đã là thành viên của WTO và sẽ hội nhập ngày càng sâu vào kinh tế khu vực và thế giới; điều đó đồng nghĩa với việc Việt Nam phải đẩy mạnh mở cửa thị trường, giảm bảo hộ, chấp nhận cạnh tranh. Việc thực thi nghiêm túc cam kết quốc tế không chỉ thể hiện quyết tâm cải cách mà nhằm bảo đảm phân bố nguồn lực (vốn, lao động) hợp lý và hiệu quả hơn. Thực tế và kinh nghiệm cho thấy tăng cường hội nhập kết hợp với cải cách trong nước là những nhân tố quyết định tăng trưởng và phát triển bền vững đem lại lợi ích tổng thể cho nước ta.
- Trong quá trình hội nhập, một số ngành kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp đã được bảo hộ nhiều nhưng không đủ sức cạnh tranh, kèm theo hậu quả phải giảm sản lượng, thậm chí đóng cửa. Trong bối cảnh này, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện các giải pháp chính sách chủ yếu (3 nhóm việc lớn):
1. Đẩy nhanh tiến độ cải cách, xây dựng thể chế kinh tế thị trường tốt hơn, minh bạch hơn, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đồng thời thực hiện những hỗ trợ phù hợp với cam kết hội nhập đặc biệt như các hình thức đào tạo, phát triển hạ tầng cơ sở, hỗ trợ nghiên cứu và triển khai, xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin… Trên cơ sở đó, cùng với nỗ lực của bản thân doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tăng cường năng lực cạnh tranh và trụ được lại trên thị trường.
2. Tiếp tục cải cách và cổ phần hóa DNNN, thu hút các nguồn lực (vốn, kỹ năng công nghệ, năng lực quản lý, tay nghề…) từ khu vực tư nhân, khu vực FDI qua đó góp phần chuyển đổi có hiệu quả các DNNN trong các ngành được bảo hộ.
3. Để hạn chế những tác động xã hội bất lợi, trước mắt Chính phủ có hỗ trợ kịp thời, ổn định cuộc sống cho người lao động và chính sách đào tạo và đào tạo lại, hỗ trợ người lao động chuyển đổi và tìm việc làm mới. Về lâu dài, Chính phủ phải có chương trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội để đảm bảo lợi ích và quyền lợi cho mọi người lao động trong nền kinh tế.
Hoa Sắc; Công chức; hoasac1952@yahoo.com
Những năm qua, nước ta đã thành công trong việc thu hút nhanh, mạnh vốn ODA, FDI. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng nguồn vốn này chưa cao và còn gây thất thoát, lãng phí. Hướng ưu tiên đầu tư bằng nguồn vốn ODA trong những năm tới cụ thể ra sao?
Trả lời:
- Trong 5 năm 2001-2005, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại. Các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam nguồn vốn ODA khá lớn với tổng giá trị đạt gần 14,9 tỷ USD. Các chương trình, dự án ODA đã được ký kết có giá trị hơn 11,2 tỷ USD, trong đó khoảng 80% là nguồn vốn vay ưu đãi. Vốn ODA giải ngân trong thời kỳ này đạt hơn 7,9 tỷ USD. Trong Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, ODA đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, khoảng 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 17% trong tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Mặc dù có những nơi, những dự án còn chưa tốt, có những vụ việc như PMU 18, song việc thu hút và sử dụng ODA trong giai đoạn vừa qua đã được Đảng và Nhà nước đánh giá về cơ bản có hiệu quả. Các nhà tài trợ cũng đánh giá cao hiệu quả sử dụng ODA ở Việt Nam và cam kết tiếp tục hỗ trợ Việt Nam thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 2006-2010. Điều này được thể hiện qua mức cam kết viện trợ của các nhà tài trợ năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam tháng 12 năm 2006, mức cam kết đã đạt con số kỷ lục 4,45 tỷ USD.
- Ngày 29/12/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 290/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án định hướng thu hút và sử dụng ODA thời kỳ 2006-2010, trong đó các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA bao gồm:
a) Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thủy sản) kết hợp xoá đói, giảm nghèo.
b) Xây dựng hạ tầng kinh tế đồng bộ theo hướng hiện đại.
c) Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục đào tạo, dân số phát triển và một số lĩnh vực khác).
d) Bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
đ) Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
e) Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Chính phủ sẽ ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA của các nhà tài trợ lớn như Nhật Bản, ADB, WB, KfW (Đức), AFD (Pháp) để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội tầm cỡ quốc gia, vùng lãnh thổ, cũng như cơ sở hạ tầng đô thị đối với một số thành phố và thị xã trọng điểm như: Phát triển đường cao tốc Bắc Nam và hệ thống đường cao tốc tại các vùng kinh tế trọng điểm; xây dựng cầu đường bộ lớn; đường sắt cao tốc Hà Nội-TP HCM; cảng nước sâu (Vân Phong-Khánh hòa, Lạch Huyện-Hải Phòng); sân bay quốc tế hiện đại cho Hà Nội, Long Thành-Biên Hòa, Đà Nẵng, Cam Ranh, Phú Quốc. Hiện đại hóa kết cấu hạ tầng đô thị; hoàn thiện hệ thống cấp thoát nước; xây dựng hệ thống đường vành đai, nội đô, đường sắt trên cao, tầu điện ngầm…Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, dân số và phát triển, giáo dục và đào tạo và một số lĩnh vực khác).....
Nguyễn Huy Minh; Công chức; Nguyễn Công Hoan, Hà Nội; hhoangng@yahoo.com
Hiện nay, các chính sách về quản lý đầu tư xây dựng, đấu thầu, quản lý đất đai và một số lĩnh vực liên quan vừa thừa, vừa thiếu, thậm chí mẫu thuẫn nhau. Điều này khiến chính quyền các tỉnh, thành phố rất lúng túng khi triển khai. Chính phủ có biết việc này không? Bao giờ mới chấm dứt được tình trạng này?
Trả lời :
Trong thời gian qua, Quốc hội đã thông qua một số Luật quan trọng liên quan đến cơ chế quản lý đầu tư, xây dựng, đấu thầu, đất đai... Các Luật này đã có nhiều quy định quan trọng nhằm mở rộng quyền tự chủ của các nhà đầu tư/doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư, kinh doanh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa và phân cấp triệt để chức năng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực này cho các Bộ, ngành, địa phương.
Tuy nhiên, việc xây dựng và thực hiện các luật mới với nhiều cải cách quan trọng trong thời gian đầu không tránh khỏi một số vướng mắc. Nhận thức rõ vấn đề này, ngay trong quá trình xây dựng luật, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành hữu quan nghiên cứu, xử lý ngay những quy định chồng chéo hoặc mâu thuẫn, gây khó khăn cho người dân, các doanh nghiệp cũng như hoạt động quản lý nhà nước. Việc Chính phủ quyết định trình Quốc hội thông qua Luật Đấu thầu thay vì Pháp lệnh đấu thầu không chỉ nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý của văn bản quản lý nhà nước về vấn đề này mà còn nhằm khắc phục sự chồng chéo giữa các quy định về quản lý hoạt động đấu thầu thuộc các dự án sử dụng vốn nhà nước và các quy định về hoạt động đấu thầu sử dụng các nguồn vốn khác. Thủ tướng Chính phủ đã có biện pháp xử lý kịp thời những vướng mắc và/hoặc chồng chéo giữa các quy định trong một số Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Nghị định 112 sửa đổi, bổ sung Nghị định 16 hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng nhằm khắc phục sự chồng chéo giữa các quy định về lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình với các quy định của Nghị định 108 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Đầu tư. Nghị định 111 hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và Nghị định 131 về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA cũng đã được soạn thảo phù hợp với các quy định có liên quan đến quản lý đầu tư và xây dựng.
Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương thực hiện việc rà soát, kiến nghị loại bỏ các quy định hoặc thủ tục hành chính gây cản trở hoạt động đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp và người dân, trong đó có các quy định về quản lý đầu tư, xây dựng, đấu thầu, đất đai... Cơ chế liên thông trong việc thực hiện thủ tục đầu tư, kinh doanh, đất đai, xây dựng... đã và đang được nghiên cứu thực hiện.
Nguyễn Ngọc Mỹ; Sinh viên; Thị trấn Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, An Giang; svmyluong@yahoo.com.vn
Đầu tư của Chính phủ cho giáo dục ở đồng bằng sông Cửu Long còn thấp so với các vùng khác của cả nước. Hiện nay, Chính phủ đã, đang và sẽ có hành động gì để thực hiện mục tiêu mà Nghị quyết 21 của Bộ Chính trị đã đề ra: “Phát triển văn hóa, giáo dục vùng ĐBSCL bằng với mặt bằng cả nước”
Trả lời:
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 Khóa 8 và Nghị quyết Quốc hội, mức chi cho giáo dục vùng ĐBSCL đã tăng liên tục nhiều năm. Năm 2007, chi cho giáo dục đào tạo của vùng đã đạt 20% tổng chi cân đối địa phương. Kỳ họp thứ X, Quốc hội khoá XI cũng có nghị quyết cho phép dành toàn bộ nguồn thu xổ số kiến thiết cho các địa phương đầu tư cho giáo dục, y tế. Dự kiến nguồn thu xổ số kiến thiết của vùng ĐBSCL năm 2007 khoảng trên 3.000 tỷ đồng để đầu tư cho giáo dục và y tế.
Cùng với nguồn vốn ngân sách hàng năm đầu tư cho giáo dục, nguồn công trái giáo dục cũng đã tập trung kiên cố hoá hệ thống trường lớp học trong vùng.
Hệ thống các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong vùng cũng được chú ý đầu tư. Các trường đại học Cần Thơ, Tiền Giang, An Giang đang được ngân sách nhà nước tập trung đầu tư để trở thành các trường đại học lớn, đủ điều kiện giảng dạy và nghiên cứu.
Bên cạnh nguồn vốn đầu tư của Trung ương, các địa phương cần thực hiện đúng chủ trương ưu tiên bố trí vốn trong ngân sách địa phương quản lý, bảo đảm chi cho giáo dục đào tạo đạt 20% tổng chi ngân sách (thực tế thời gian qua nhiều tỉnh bố trí thấp hơn chỉ tiêu do Thủ tướng Chính phủ giao).
Nguyễn Chí Thành; Đồng Hới - Quảng Bình
Miền Trung là một vùng đất rất nghèo nàn của đất nước. Chiến lược phát triển miền Trung hiện nay ra sao?
Trả lời:
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm tới sự phát triển của miền Trung. Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 39-NQTW về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010; Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 113/2005/QĐ-TTg về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 39.
Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị nêu rõ quan điểm phát triển miền Trung là:
- Tập trung nguồn lực, khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của từng địa phương và cả vùng, đưa kinh tế - xã hội phát triển với tốc độ nhanh hơn so với bình quân chung cả nước. Khai thác có hiệu quả toàn diện, tổng hợp vùng: ven biển, đồng bằng, trung du và miền núi phía Tây trong thế liên kết và hợp tác phát triển với Tây Nguyên, với các vùng kinh tế động lực của cả nước.
- Phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân. Tạo bước chuyển biến cơ bản, toàn diện về chất lượng nguồn nhân lực và trình độ dân trí của cư dân trong vùng.
Mục tiêu đến năm 2010 là: Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ sớm tiến kịp các vùng khác trong nước và trở thành một đầu cầu lớn của cả nước trong giao lưu, hợp tác kinh tế quốc tế, cải thiện căn bản đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân trong vùng; hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của thiên tai; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái.
Để thực hiện được các mục tiêu chiến lược nêu trên, cần triển khai một số giải pháp chủ yếu, bao gồm việc tiến hành rà soát, xây dựng quy hoạch tổng thể vùng từ nay đến năm 2010 dựa trên lợi thế so sánh của vùng và mỗi địa phương; phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và các khu vực kinh tế quan trọng khác; huy động nguồn vốn để đầu tư phát triển, ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp, tạo môi trường đầu tư thông thoáng nhằm thu hút các đầu tư nước ngoài, đặc biệt các tập đoàn lớn, và đầu tư trong nước; đầu tư phát triển khoa học và công nghệ tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hoá, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Liên kết kinh tế với các vùng khác trong cả nước và chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập sâu vào khu vực và thế giới nhằm phát triển thị trường cho các sản phẩm có lợi thế của vùng.
Nguyễn Đình Hạnh; 396 Điện Biên Phủ, thành phố Đà Nẵng; info@macshinco.biz
Sự phát triển của đất nước ta thời gian qua là đáng trân trọng. Tuy nhiên, chúng ta lại đang lệ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn vay nước ngoài? Liệu đời con cháu của chúng ta có trả được hết những khoản vay này không?
Trả lời:
Chúng ta không lệ thuộc vào nguồn vốn vay nước ngoài và có khả năng trả nợ những khoản nợ đã vay, lý do:
1) Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm, vốn trong nước chiếm 65% và vốn nước ngoài là 35%. Trong nguồn vốn ngoài nước thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp chiếm hơn 2/3, còn lại là vay nước ngoài. Như vậy vốn vay nước ngoài chỉ chiếm dưới 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
2) Về khả năng trả nợ, Chính phủ đã xây dựng Chiến lược vay và trả nợ nước ngoài đến 2010 trong đó phương án vay và cả phương án trả nợ đã được xem xét phân tích kỹ lưỡng từ đó mới xây dựng kế hoạch vay nợ hàng năm. Với tổng dư nợ vay của quốc gia hiện nay khoảng 35% GDP nếu so sánh với giới hạn theo kinh nghiệm quốc tế là 50% GDP thì có thể nói chúng ta vẫn ở trong mức an toàn và hoàn toàn có khả năng trả nợ những khoản vay nước ngoài. Những phân tích về mức độ an toàn trong vay nợ của Việt nam do Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới đã thực hiện cũng khẳng định điều này.
Đinh Toàn Thắng, Ngõ 3 Ngọc Khánh, Hà Nội
Việc “Tập đoàn hóa” các Tổng công ty nhà nước là không giống ai, bình mới rược cũ, thậm chí phình thêm bộ máy, nhân sự, không đúng với bản chất của một Tập đoàn kinh tế?
Trả lời:
Nhận định như thế là không khách quan, không đúng thực tế.
Doanh nghiệp Nhà nước của ta được hình thành trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Tuy còn nhiều yếu kém, khuyết điểm nhưng nói một cách sòng phẳng, doanh nghiệp Nhà nước đã có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
Trong giai đoạn đất nước đấu tranh giành độc lập dân tộc, ngay cả khi bị bao vây cấm vận và trong 20 năm đổi mới, doanh nghiệp nhà nước đã đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Từ năm 1986, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều đổi mới để phù hợp và đến nay đã thành công. Đến nay, các doanh nghiệp nhà nước đã hoạt động hoàn toàn theo cơ chế thị trường, theo pháp luật của nhà nước, hoàn toàn bình đẳng với các doanh nghiệp khác.
Đến năm 2006, chúng ta chỉ còn 1800 doanh nghiệp nhà nước. Sắp tới đây, chúng ta sẽ tiến hành cổ phần hóa. Hầu hết, doanh nghiệp sẽ chuyển sang đa sở hữu. Như vậy, chúng ta đã chuyển doanh nghiệp nhà nước hoạt động từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, từ sở hữu nhà nước thành sở hữu đa thành phần.
Năm 2006 vừa qua, doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp 30% vào GDP, chiếm gần 40% ngân sách và chiếm 50% giá trị xuất khẩu trong nền kinh tế. Đây là những thông tin chính thống của Chính phủ. Những đóng góp to lớn của khu vực doanh nghiệp nhà nước như đã nêu ở trên cho thấy ý kiến “doanh nghiệp nhà nước yếu kém gây thiệt hại cho nền kinh tế” là chưa hợp lý.
Đến nay, chúng ta có 104 Tập đoàn và Tổng công ty nhà nước, tất cả đều hoạt động tốt, có hiệu quả, tốc độ tăng trưởng gần 12%, tiêu chí tăng trưởng dựa vào hiệu quả: Đồng vốn nhà nước bỏ ra, doanh số, hiệu quả lợi nhuận và kể cả hiệu quả xã hội.
Trương Văn Dũng; Văn Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hoá
Gia nhập WTO sẽ có nhiều nhà đầu tư vào Việt Nam, vậy Chính phủ có đứng ra phân bổ các nguồn đầu tư đồng đều về các địa phương hay là các địa phương tự thu hút các nhà đầu tư?
Trả lời:
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài trong phạm vi cả nước. Nội dung quản lý nhà nước về đầu tư là xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về đầu tư phát triển; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư; hướng dẫn và hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư và giải quyết những vấn đề vướng mắc, yêu cầu của nhà đầu tư; cấp thu hồi giấy chứng nhận đầu tư; đánh giá hiệu quả đầu tư; tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư... Còn việc lựa chọn địa phương nào để đầu tư là quyền của nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ và các Bộ, ngành không thể phân bổ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài một cách đồng đều về các địa phương.
Tuy nhiên, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của nước ta luôn coi trọng việc khuyến khích đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Luật Đầu tư 2005 tiếp tục hoàn chỉnh các quy định nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Theo đó, nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư được hưởng các ưu đãi đầu tư về thuế, chuyển lỗ, khấu hao tài sản cố định và ưu đãi về sử dụng đất. Chính phủ cũng đã và đang sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước và các nguồn lực khác hỗ trợ các địa phương phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực… nhằm tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn.
Luật Đầu tư năm 2005 và Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư đã phân cấp triệt để về thẩm quyền cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư và quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư cho địa phương.
Lèo Đức Dung; Huyện Định Hoá, Thái Nguyên.
Hiện nay, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi vẫn còn nhiều khó khăn. Trong những năm tới, Chính phủ sẽ có những Chương trình phát triển kinh tế-xã hội gì để miền núi tiến kịp các vùng miền trong cả nước trong tiến trình hội nhập?
Trả lời:
1. Chính phủ tiếp tục triển khai các Chương trình đối với miền núi:
- Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010 (chương trình 135 giai đoạn II).
- Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng.
- Các Chương trình mục tiêu Quốc gia.
- Các Chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; xoá đói giảm nghèo thể hiện qua các cơ chế chính sách đã ban hành: Hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (Quyết định 134/2004/TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ); phát triển kinh tế-xã hội bảo đảm quốc phòng-an ninh các tỉnh biên giới ; phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân các xã vùng ATK; trợ giá các mặt hàng chính sách, trợ cước vận chuyển tiêu thụ sản phẩm...
- Chương trình về Giáo dục: Tiếp tục triển khai việc cấp học bổng, chi phí ăn ở, học tập ở các trường nội trú dân tộc (huyện, tỉnh); miễn giảm tiền xây dựng trường, học phí và hỗ trợ chính sách giáo khoa, giấy vở học sinh cho con em người dân tộc thiểu số nghèo; Chính sách cử tuyển học sinh người dân tộc vào các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp; kiên cố hoá trường, lớp học...
- Chương trình về Y tế: Chương trình quốc gia về y tế; Miễn giảm viện phí, bảo đảm thuốc thiết yếu thông thường đối với người nghèo, đồng bào thuộc diện chính sách, đồng bào các dân tộc; cấp thẻ khám chữa bệnh, thẻ bảo hiểm y tế; xây dựng trạm y tế; nâng cấp cơ sở y tế tỉnh, huyện...
- Thực hiện chính sách ưu đãi tín dụng bằng nguồn vốn khác nhau thông qua các tổ chức ngân hàng Nhà nước, các dự án, các mô hình tín dụng đối với vùng sâu vùng xa, đặc biệt là nguồn vốn từ ngân hàng chính sách xã hội...
- Hỗ trợ và ưu đãi đầu tư khu vực đặc biệt khó khăn, khu vực khó khăn theo Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai... mới ban hành.
2. Những Chương trình phát triển kinh tế-xã hội mới triển khai thời gian tới:
Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành chương trình phát triển KT-XH và bảo đảm AN-QP đến năm 2010 vùng trung du và miền núi Bắc bộ (bao gồm Tây Thanh Hóa, Tây Nghệ An), vùng Tây Nguyên nhằm thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển các vùng, làm cơ sở xây dựng và thực hiện kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng KT-XH của vùng miền núi.
- Thực hiện phát triển Công nghiệp vùng trung du miền núi Bắc Bộ theo quy hoạch từ năm 2006-2020 của Bộ Công nghiệp.
- Chương trình ổn định dân cư biên giới Việt-Trung; ổn định dân cư các xã biên giới Việt-Lào vùng Trung du miền núi Bắc Bộ.
- Chương trình liên doanh-liên kết với Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên tất cả các lĩnh vực nhằm phát triển kinh tế-xã hội thông qua xây dựng hành lang kinh tế Côn Minh-Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng và Nam Ninh-Lạng Sơn-Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh.
- Chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức xã, phường, thị trấn là người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010 .
- Ban hành một số cơ chế, chính sách mới đối với vùng Trung du miền núi Bắc Bộ:
Nghị định về cơ chế đặc thù thu hút vốn đầu tư đối với các tỉnh Tây Bắc.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách, giải pháp chủ yếu để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Trung du miền núi Bắc Bộ thời kỳ 2006-2010.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phủ sóng phát thanh và truyền hình vùng Trung du miền núi Bắc Bộ đến năm 2010.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về du lịch năm 2006-2015 và tầm nhìn đến năm 2025.
Tô Thanh Hùng; 26/4D Ấp Mới 1,X.Tân Xuân,H.Hốc Môn,Tp.HCM; makefriends2610@yahoo.com
Phong cảnh của Việt Nam hơn rất nhiều so với Thái Lan, Malaysia, Singapore… Vậy tại sao Nhà nước không thể đầu tư một cách nghiêm túc để phát triển du lịch?
Trả lời:
Trong những năm qua, mặc dù đã có những bước phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, nhưng du lịch Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của nó, chưa khẳng định được vị trí, vai trò của một ngành kinh tế mũi nhọn mà Đảng và Nhà nước đã xác định. Một trong những nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển này là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế nói chung và của ngành du lịch nói riêng còn yếu và thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi. Nhận thức được vấn đề này, từ năm 2001, Chính phủ đã dành một phần vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương để hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch của các địa phương thông qua Chương trình hỗ trợ đầu tư có mục tiêu. Từ năm 2001-2007, tổng số vốn dành cho chương trình này là 3.525 tỷ đồng (tương đương 200 triệu USD), được phân bổ cho 60 tỉnh, thành trên cả nước. Với sự hỗ trợ này, cơ sở hạ tầng du lịch của các địa phương, đặc biệt những trung tâm du lịch, khu du lịch, tuyến du lịch đã được cải thiện rõ rệt, tác động không nhỏ đến tốc độ phát triển của ngành du lịch trong những năm qua, tạo động lực thu hút hàng nghìn tỷ đồng từ đầu tư trong nước và hàng tỷ USD từ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các công trình du lịch. Tuy nhiên, do ngân sách nhà nước còn nhiều hạn chế nên việc hỗ trợ đầu tư của Nhà nước về cơ sở hạ tầng du lịch còn chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi. Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ quan tâm hơn nữa việc hỗ trợ này, bên cạnh việc huy động sự tham gia của các nguồn lực khác như ODA, FDI, tư nhân trong nước để nhanh chóng hoàn thiện về cơ bản cơ sở hạ tầng du lịch trong cả nước, góp phần đưa du lịch Việt Nam trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Lê Minh Huấn, 17 Nguyễn Viết Xuân, Đắk Nông; leminhhuan@hopthu.com
Thu nhập chính các tỉnh Tây Nguyên trong GDP nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn. Kế hoạch sắp tới trong thời hội nhập các tỉnh Tây Nguyên cần làm gì để có sự tăng trưởng?
Trả lời:
Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ cùng các tỉnh Tây nguyên tập trung thực hiện một số giải pháp thúc đẩy kinh tế ở các tỉnh Tây nguyên như sau:
1. Phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Ngành công nghiệp chế biến phải trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của vùng. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển công nghiệp như: cà phê, cao su, điều, bông, chè, thịt, sữa,...
- Đầu tư sản xuất vật liệu xây dựng. Chuẩn bị khai thác, chế biến một số loại khoáng sản như Bauxite nhôm, Fenspat,… Tập trung đầu tư hoàn thành các công trình thủy điện đang xây dựng; tiếp tục đầu tư các công trình thủy điện kết hợp với cấp nước sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào trong vùng.
2. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng tập trung thâm canh, tạo sản phẩm có giá trị kinh tế cao, tạo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
- Đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm và các loại cây có giá trị kinh tế cao, giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số xây dựng vườn gia đình để cải thiện và nâng cao dinh dưỡng trong bữa ăn hàng ngày.
Phát triển cây công nghiệp dài ngày; tiếp tục giảm diện tích cà phê ở những nơi kém hiệu quả, trồng thêm điều, trồng hoa cao cấp phục vụ nhu cầu tại chỗ và xuất khẩu.
- Phát triển trâu, bò, lợn, dê. Khuyến khích hộ gia đình phát triển chăn nuôi gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản ở những nơi có điều kiện.
- Chuyển một phần diện tích rừng phòng hộ sang trồng rừng kinh tế; đẩy nhanh việc giao khoán rừng đặc dụng, phòng hộ cho cộng đồng buôn làng và hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ trực tiếp quản lý.
3. Đi đôi với việc phát triển kinh tế, tiếp tục phát triển các lĩnh vực văn hoá xã hội:
- Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đến trường, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Phát triển mạng lưới y tế cơ sở.
- Bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc Tây Nguyên; Tăng cường đồng bộ hoạt động văn hoá-thông tin cơ sở.
4- Tiếp tục phát triển mạng lưới giao thông đường bộ, bảo đảm 100% xã có đường ô tô vào xã; nâng cấp và xây dựng các công trình thuỷ lợi để cấp nước tưới và sinh họat, kết hợp phát điện, chống lũ, du lịch, nuôi trồng thuỷ sản. Xây dựng các trường đào tạo nghề theo quy hoạch, các trung tâm dạy nghề cấp huyện để đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn. Nâng cấp bệnh viện huyện và bệnh viện đa khoa khu vực…
Đinh Anh Tuấn; Hoà Bình
Xin cho biết đánh giá như thế nào về tiềm năng, cơ hội của các tỉnh miền núi phía Bắc sau sự kiện đất nước hội nhập đầy đủ, toàn diện vào nền kinh tế thế giới? Trong giai đoạn tới, các tỉnh miền núi phía Bắc cần tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm gì?
Trả lời:
1. Tiềm năng của vùng:
- Là vùng có địa hình đa dạng, quỹ đất chưa sử dụng còn lớn với các tiểu vùng khí hậu nhiệt đới và ôn đới để phát triển nông nghiệp, phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi rất đa dạng và phong phú, trong đó có những loại cây đặc sản có giá trị cao như chè (chè tuyết, chè vàng...), hồi, quế, sơn, mận, dược liệu quí, hương liệu, v.v..., đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến nông lâm sản.
- Vùng giàu tài nguyên khoáng sản ở nước ta, trong đó có những loại có trữ lượng lớn như thuỷ điện chiếm 56%, apatít 100%, đồng 70%, đất hiếm gần 100% của cả nước; ngoài ra còn có đá vôi để sản xuất xi măng, sắt, chì kẽm, boxít v.v. Đây là thế mạnh, là cơ sở quan trọng để phát triển ngành công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản.
- Vùng có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng, từ cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ đến các di tích văn hoá, di tích lịch sử đã được xếp hạng. Vùng có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống với bản sắc văn hoá đa dạng.
- Vùng có vị trí kinh tế, chính trị quan trọng đối với cả nước, tiếp giáp với Trung Quốc và Lào. Giải biên giới có nhiều cửa khẩu quốc tế quan trọng như Hữu Nghị, Lào Cai, các cửa khẩu quốc gia... là cầu nối của vùng cũng như cả nước với Trung Quốc, Bắc Lào góp phần quan trọng trong giao lưu hàng hoá, phát triển kinh tế hiện tại cũng như tương lai.
2. Các nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới:
- Tập trung đầu tư xây dựng và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng, hoàn thành việc xây dựng các dự án lớn đặc biệt là giao thông (đường bộ, đường sắt, đường hàng không).
- Phát huy tối đa lợi thế so sánh của vùng sớm hình thành các vùng chuyên canh tập trung tạo nguồn hàng hoá, tạo ra những mặt hàng mũi nhọn như chè, dược liệu, hương liệu, hoa quả; phát triển chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò) theo hướng trang trại (với quy mô vừa và lớn, sản xuất tập trung sẽ có điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật từ khâu chọn giống, chăm sóc, khống chế dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc kháng sinh v.v... đến chế biến sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước).
- Chuyển dịch và nâng cao chất lượng cơ cấu trong công nghiệp bằng phát triển các ngành sản xuất chủ lực: Tập trung xây dựng thuỷ điện, trước mắt là hoàn thành thuỷ điện Sơn La, Tuyên Quang, Lai Châu; Công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản; công nghiệp vật liệu xây dựng; công nghiệp chế biến nông lâm sản; từng bước hình thành các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề truyền thống; quan tâm đến phát triển tiểu thủ công nghiệp, nhất là ngành nghề truyền thống phục vụ cho xuất khẩu.
- Tập trung phát triển các trung tâm kinh tế của vùng, các khu kinh tế cửa khẩu, đẩy mạnh hợp tác phát triển “hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc” trên nhiều lĩnh vực như phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp khai khoáng và chế biến khoáng sản, phát triển dịch vụ vận tải, thương mại, du lịch..
- Phát triển mạnh du lịch, trên cơ sở quy hoạch du lịch vùng trung du miền núi bắc bộ giai đoạn 2006-2020 của Tổng cục du lịch.
- Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Hoàng Huy Bổng; Xóm 1 B, xa Co NHue - Tu Liem - Ha Noi
Làm thế nào để trong 5-10 năm tới, đất nước ta sẽ phát triển nhanh và mạnh như Thái Lan, Malaysia ?
Trả lời :
Thái Lan và Malaysia là 2 nước trong khu vực Đông Nam Á có trình độ phát triển cao hơn nước ta. Để trong 5-10 năm tới đất nước ta sẽ phát triển nhanh và mạnh như Thái Lan, Maylaysia, cần phát huy sức mạnh của cả dân tộc trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và các năm tiếp theo.
Trước hết, cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các năm trước đây và cao hơn so với Thái Lan, Malaysia; tạo bước đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển dịch đồng bộ cơ cấu và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Huy động tốt các nguồn lực trong nước và nguồn vốn của đồng bào ta ở nước ngoài để đẩy mạnh đầu tư phát triển.
Chủ động hội nhập kinh tế sâu rộng hơn với khu vực và thế giới, tận dụng điều kiện thuận lợi, khai thác tốt hơn lợi thế so sánh, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát huy tốt hơn nội lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước. Cải thiện môi trường đầu tư để thu hút mạnh mẽ hơn các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Tận dụng tốt việc Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) để phát triển sản xuất, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Tạo môi trường thuận lợi cho phát triển doanh nghiệp; chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Phát triển mạnh, không hạn chế quy mô các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế và tôn trọng yêu cầu khách quan của kinh tế thị trường trong các hoạt động kinh tế. Đổi mới công tác quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội theo hướng phát huy tối đa những tác động tích cực của thị trường.
Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức thực hiện xóa đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp. Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp người nghèo tự vươn lên.
Tiếp tục đổi mới giáo dục và đào tạo một cách toàn diện nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Phát huy hiệu quả sử dụng lao động, có các chính sách thu hút nhân tài. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân.
Phát triển toàn diện khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa-thông tin, thể dục thể thao; giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức xúc về xã hội, môi trường.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, kiện toàn và nâng cao hiệu lực, hiệu quả bộ máy nhà nước; thực hiện kiên quyết và đồng bộ các biện pháp phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí.
Nguyễn Duy Điệp, Xã Bình Thạnh Đông, Huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi ; tphochiminh_ndd@yahoo.com
Đề nghị cho biết chính sách hiện nay về lao động việc làm tập trung vào những nội dung chủ yếu nào? Đối với những người lao động hoặc sinh viên mới ra trường đang trong thời gian tìm việc, người nghèo, người già cô đơn có được trợ giúp hay không và nếu có thì hình thức trợ giúp như thế nào?
Trả lời:
Về chính sách chung: Một trong những mục tiêu quan trọng được Quốc hội thông qua trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước 2006-2010 là giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho 1,6 triệu lượt lao động. Chính phủ đã giao cho Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội xây dựng Chương trình mục tiêu Quốc gia về Việc làm giai đoạn 2006-2010 mà nội dung chính tập trung vào một số vấn đề sau:
1)Về tín dụng:
- Giành 2.600 tỷ đồng, giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để phát triển sản xuất, tạo chỗ làm việc mới, thu hút người chưa có việc làm vào làm việc. Khoản tín dụng này áp dụng cho mọi đối tượng vay, chỉ cần có dự án vay vốn.
- Ngân hàng CSXH còn dành khoảng 12-15 nghìn tỷ đồng cho vay xóa đói giảm nghèo với lãi suất ưu đãi. Ngoài ra, Ngân hàng CSXH còn thực hiện cho người nghèo và đối tượng chính sách vay đi xuất khẩu lao động.
Những người có nhu cầu vay vốn hỗ trợ việc làm từ Ngân hàng Chính sách xã hội tại các địa phương có thể đến các Chi nhánh của Ngân hàng CSXH để được tư vấn và hướng dẫn cụ thể.
2) Phát triển thị trường lao động: bao gồm đầu tư cho hệ thống 3 Trung tâm Giới thiệu việc làm quốc gia và các Trung tâm giới thiệu việc làm tại các địa phương, nhằm cung cấp thông tin về thị trường lao động trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho người lao động tìm kiếm việc làm và chủ sử dụng lao động tuyển dụng lao động.
Những ai có nhu cầu việc làm đều có thể đến các trung tâm này để được tư vấn và giới thiệu việc làm.
Nhà nước còn có chính sách trợ giúp dạy nghề cho người nghèo trong Chương trình mục tiêu Quốc gia về Giảm nghèo, như miễn giảm học phí cho người nghèo khi học nghề. Những ngành nghề được đào tạo thường phù hợp nguyện vọng và giúp cho sau khi học xong có thể tìm kiếm việc làm hoặc tự tạo việc làm được ngay.
Đối với học sinh, sinh viên, Nhà nước có chương trình tín dụng sinh viên, tức là cho vay tín dụng với lãi suất ưu đãi đối với học sinh, sinh viên là con em các gia đình nghèo để theo học Đại học, cao đẳng,...(thông qua vay của hộ gia đình). Đối với sinh viên mới ra trường, thực hiện chính sách chung như đã nói ở trên.
Riêng người già cô đơn, Nhà nước có chính sách bảo trợ xã hội đối với đối tượng này. Tại các Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện, phường đều có bộ phận Lao động Xã hội xem xét, hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Dương Hữu Thảo; Công nhân; Cầu Giấy-Hà Nội; duonghuuthao@yahoo.com
Nội dung cụ thể của chính sách trợ cấp nghỉ hưu trước tuổi, trong đó có điều kiện, mức trợ cấp và đối tượng được hưởng trợ cấp như thế nào?
Trả lời:
Thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp Nhà nước (như cổ phần hóa, giải thể, bán khoán, cho thuê, sắp xếp lại doanh nghiệp), có một bộ phận lao động bị mất việc làm, phải nghỉ hưu trước tuổi. Để giải quyết chế độ chính sách đối với lao động dôi dư, Chính phủ đã ban hành Nghị định 41/2002/NĐ-CP, ngày 11 tháng 4 năm 2002, trong đó cho phép thực hiện một số chế độ đối với lao động dôi dư của các DNNN bị sắp xếp, nhưng chỉ thực hiện đến 31/12/2005. Theo chính sách tại Nghị định này thì người lao động dôi dư đang thực hiện hợp đồng lao động không xác định thời hạn:
- Đủ 55 tuổi đến dưới 60 tuổi đối với nam và đủ 50 tuổi đến dưới 55 tuổi đối với nữ, có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên, được:
* Nghỉ hưu, nhưng không trừ phần trăm lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi
* Được hưởng thêm 02 khoản trợ cấp sau:
- Trợ cấp 03 tháng tiền lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp lương đang hưởng cho mỗi năm (12 tháng) nghỉ hưu trước tuổi
- Trợ cấp 05 tháng tiền lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp lương đang hưởng cho 20 năm đầu công tác có đóng BHXH. Từ năm thứ 21 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng BHXH được trợ cấp thêm một nửa tháng lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp lương đang hưởng.
Tuy nhiên, quá trình sắp xếp các DNNN thực hiện rất chậm. Đến cuối năm 2006, vẫn bị tồn đọng rất lớn. Để giải quyết chế độ cho người lao động, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã trình Chính phủ để ban hành Nghị định giải quyết chính sách đối với lao động dôi dư, với các nội dung chính là:
- Được về hưu trước tuổi.
- Được hưởng một khoản trợ cấp tìm việc làm bằng 6 tháng lương.
- Được hưởng trợ cấp mất việc làm theo quy định của Bộ Luật Lao động (là cứ mỗi năm làm việc được hưởng 1 tháng lương), ngoài ra còn được hưởng thêm cho mỗi năm làm việc 1 tháng lương nữa.
Hiện nay, Chính phủ đang xem xét để ban hành chính sách này trong thời gian tới.
Phạm Thị Nhung; Hội Mỹ nghệ Kim hoàn Đá quý Việt Nam; thoitrangvang@vnn.vn
Hiện nay, Chính phủ đã có những biện pháp, chính sách gì để hỗ trợ cho các đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa về các lĩnh vực: Giáo dục, giao thông và y tế. Nếu có các chính sách đó đã được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
I. Chính sách đối với đồng bào bào dân tộc vùng sâu, vùng xa về các lĩnh vực:
1. Về giáo dục:
- Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, tập trung cho các vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa.
- Chi phí toàn bộ tiền ăn ở, học tập ở các trường nội trú dân tộc (huyện, tỉnh) . Đối với học sinh dân tộc thiểu số nghèo thuộc diện học ở các trường nội trú mà tham gia dự học ở các trường công lập, bán công được cấp học bổng bằng 50% học bổng nội trú.
- Thực hiện miễn góp tiền xây dựng trường, học phí. Hỗ trợ sách giáo khoa, giấy vở học tập cho con em là người dân tộc thiểu số nghèo.
- Chính sách cử tuyển học sinh người dân tộc vào các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.
- Xây dựng trường lớp tại các xã đặc biệt khó khăn (chương trình 135); kiên cố hoá trường học phục vụ triển khai chương trình giáo dục phổ thông.
2. Về Y tế:
- Thực hiện các chương trình phòng chống dịch bệnh, đầu tư xây dựng bệnh viện và trang thiết bị y tế để khám chữa bệnh.
- Miễn, giảm viện phí, bảo đảm thuốc thiết yếu thông thường đối với người nghèo, đồng bào thuộc diện chính sách, đồng bào các dân tộc.
- Cấp thẻ khám chữa bệnh, thẻ bảo hiểm y tế cho đồng bào nghèo.
- Xây dựng trạm xá xã tại các xã đặc biệt khó khăn (chương trình 135); nâng cấp cơ sở vật chất ngành y tế.
3. Về giao thông vận tải:
- Ưu tiên đầu tư hệ thống Quốc lộ đến các tỉnh miền núi phía Bắc, các tỉnh Tây Nguyên và vùng Đồng bằng sông Cửu Long (nơi có đồng bào dân tộc Khơ me).
- Xây dựng đường giao thông về các xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã. Xây dựng đường về thôn, bản (Chương trình 135; Quyết định 186, 168, 173...); Chương trình giao thông nông thôn,...
- Xây dựng đường giao thông biên giới.
II. Các chính sách đó đã được thực hiện như sau:
1. Về giáo dục:
- Hàng năm, ngân sách nhà nước cân đối cho ngân sách các tỉnh vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long để thực hiện nhiệm vụ chi phí toàn bộ tiền ăn ở, học tập ở các trường nội trú dân tộc...
- Chính sách cử tuyển đã thực hiện được trên 14 năm, đã đào tạo được trên 13 nghìn cán bộ các dân tộc thiểu số có trình độ đại học, cao đẳng. Nhờ đó, tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số ở các địa phương tăng lên đáng kể, đáp ứng từng bước nhu cầu cán bộ của các địa phương vùng dân tộc và miền núi.
- Đầu tư hơn 2.500 tỷ đồng kiên cố hoá trường học, phòng học tạm thời tranh tre nứa lá; các tỉnh, huyện vùng sâu vùng xa vùng núi khó khăn đều có trường dân tộc nội trú.
2. Về Y tế:
- Căn cứ các chính sách nêu trên, các địa phương tổ chức thực hiện việc cấp thẻ khám chữa bệnh, thẻ bảo hiểm y tế theo đúng đối tượng (Theo Quyết định 1143 của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội; đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định 186, 168; nhân dân các xã 135).
- Hàng năm, ngân sách nhà nước cân đối cho các địa phương vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long nâng cấp bệnh viện huyện và Bệnh viện đa khoa khu vực hàng trăm tỷ đồng (theo quyết định 225), riêng kế hoạch năm 2007 bố trí 497 tỷ đồng.
3. Về Giao thông:
- Giao Bộ Giao thông vận tải quy hoạch và xây dựng hệ thống đường quốc lộ, đường sắt, đường sông và hệ thống sân bay đến các vùng. Đến nay cơ bản đã hình thành hệ thống giao thông đến các vùng như: Vùng miền núi phía Bắc quốc lộ 1,2,3,6,32, hệ thống quốc lộ số 4, 279...Vùng Tây Nguyên hệ thống quốc lộ số 19, 20, Từ quốc lộ 24 đến 28, 40, 14C... Vùng Đồng bằng sông Cửu Long hệ thống quốc lộ số 1A, 30, 50, 60 đến 63, 80, 53,54, 57... Nâng cấp sân bay Điện Biên Phủ, sân bay Nà Sản (Sơn La), sân bay Liên Khương (Lâm Đồng), sân bay Phú Quốc (Kiên Giang)...
- Các tỉnh thực hiện lồng ghép các nguồn vốn (vốn ngân sách nhà nước cân đối, vốn các chương trình mục tiêu, vốn các dự án...) xây dựng và nâng cấp hệ thống đường tỉnh, huyện, đường thôn bản. Đến nay, hầu hết các xã có đường ô tô đến trung tâm xã. Dự kiến đến năm 2010, 100% các xã có đường ô tô đến trung tâm xã.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng xây dựng hệ thống đường ra biên giới, đường tuần tra biên giới đã và đang được khẩn trương đầu tư bằng nguồn trái phiếu Chính phủ.
Nguyễn Văn Bông; QATAR
Là một công dân Việt Nam đang sống và làm việc ở nước ngoà với công việc phiên dịch cho công nhân lao động. Xin hỏi Chính phủ có chương trình và kế hoạch gì cho lao động sang làm việc ở Qatar, khi mà hàng loạt công ty đưa công nhân sang làm việc nhưng không có hợp đồng cụ thể, khiến công nhân phải về nước và thiệt hại về kinh tế rất lớn. Ai là người chịu trách nhiệm về việc này?
Trả lời:
Nhu cầu thuê lao động nước ngoài của Qatar là rất lớn. Thời gian qua, Việt Nam đã có trên 1.400 lao độn, do các Công ty được Bộ LĐTBXH cấp phép XKLĐ, đưa sang Qatar làm việc. Gần đây, một số người phải về nước trước thời hạn hợp đồng, chủ yếu là do lỗi của người lao động Việt Nam, như:
- Ý thức tổ chức kỷ luật kém;
- Vi phạm luật pháp của nước bạn, nhất là phong tục tập quán của quốc gia Đạo Hồi;
- Nhiều trường hợp do lỗi từ khâu tuyển chọn trong nước của các DN. Khi tuyển chọn, lấy lao động phổ thông, nhưng khi cung ứng cho bạn là lao động có nghề. Qua sử dụng, bạn phát hiện không có nghề, nên trả lại. Chưa có trường hợp nào bị lừa đảo.
Để đưa hoạt động XKLĐ vào nề nếp theo pháp luật, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành Luật đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, theo đó đã quy định rất rõ quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, DN đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Tất cả các vi phạm đều bị xử lý theo luật pháp.
Trong các trường hợp bị về nước nói trên, nếu lỗi do người lao động gây nên (như vi phạm luật pháp nước bạn, vô tổ chức, vô kỷ luật) thì người lao động phải chịu; nếu do DN gây ra (như không có hợp đồng lao động rõ ràng; lỗi từ khâu tuyển chọn; không rõ ràng minh bạch ngay từ đầu) thì DN phải chịu.
Phạm Văn Điệp; Đắk Nông; net_hoangvu252@yahoo.com
Giải pháp gì để giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn đang thất nghiệp vì họ không có tay nghề, chuyên môn kỹ thuật?
Trả lời:
Để giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn đang thất nghiệp, không có tay nghề chuyên môn kỹ thuật, Nhà nước thực hiện các chính sách như dạy nghề, thu hút đầu tư vào các vùng đặc biệt khó khăn:
a) Đối với chính sách dạy nghề: Chính phủ đã và đang đầu tư hệ thống các trường dạy nghề bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn ODA, nhằm đáp ứng nhu cầu lao động có tay nghề cho các DN trong nước, DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, cho các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đồng thời, Chính phủ đã phê duyệt và bố trí ngân sách cho Chương trình Dạy nghề cho Nông dân, trong đó có thanh niên nông thôn; tăng cường dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, hướng dẫn cách làm ăn và chuyển giao công nghệ, kết hợp cho vay vốn tạo điều kiện cho nông dân phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động.
b) Chính sách thu hút đầu tư về vùng khó khăn: Ban hành chính sách khuyến khích các nhà đầu tư, đầu tư phát triển sản xuất ở các vùng khó khăn, nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội ở các vùng này. Đồng thời, yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện chính sách thu hút thanh niên tại chỗ vào làm việc, Nhà nước hỗ trợ một phần vốn đào tạo nghề đối với thanh niên nông thôn, đặc biệt là thanh niên người dân tộc thiểu số, để có thể tiếp cận ngay với công việc của doanh nghiệp.
Ngoài ra, còn đẩy mạnh phong trào Thanh niên lập nghiệp tại các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Thực hiện các chính sách trợ giúp các vùng Thanh niên lập nghiệp để phát triển kinh tế-xã hội, lôi kéo nhân dân các nơi khác đến làm ăn. Đến nay, đã có 4 làng Thanh niên lập nghiệp ở khu vực miền Trung, dọc đường Hồ Chí Minh. Dự kiến sẽ phát triển thêm tại khu vực miền núi phía Bắc, để đến cuối năm 2010 sẽ có 8 làng thanh niên lập nghiệp trong cả nước.
Phan Ngọc Trường Nhân; Cần Thơ; truongnhanpn@gmail.com
Đề án 112 CP là một chủ trương lớn và đúng đắn của Chính phủ. Tuy nhiên khi đưa vào triển khai đến nay chưa đem lại hiệu quả. Chính phủ sẽ có chương trình, kế hoạch gì để đổi mới và nâng cao hiệu quả của đề án nhằm đáp ứng lộ trình xây dựng Chính phủ điện tử ở Việt Nam.
Trả lời:
Để thực hiện Chỉ thị 58-CT/TW về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, ngày 25/7/2001, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 112/2001/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2005 (gọi tắt là Đề án 112). Việc ứng dụng và phát triển CNTT trong công tác quản lý hành chính nhà nước là một chủ trương đúng và là một giải pháp quan trọng, thúc đẩy quá trình xây dựng Chính phủ điện tử và công cuộc cải cách hành chính ở nước ta trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình triển khai Đề án 112, chúng ta cũng đã làm được khá nhiều việc như: bước đầu xây dựng các hệ thống thông tin quản lý hành chính của các Bộ, ngành Trung ương, các tỉnh và thành phố; hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, các hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành; đào tạo và nâng cao trình độ về tin học cho cán bộ, công chức hành chính; mạng tin học diện rộng của Chính phủ... Tuy nhiên, kết quả của Đề án 112 trong giai đoạn 2001- 2005 đạt được còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc cải cách hành chính nói chung. Để tiếp tục đẩy mạnh tin học hóa quản lý hành chính nhà nước, Chính phủ sẽ thực hiện những biện pháp chỉ đạo kiên quyết, cụ thể:
- Yêu cầu Ban điều hành Đề án 112 của Chính phủ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tiến hành đánh giá, tổng kết những kết quả cụ thể đã đạt được, những yếu kém còn tồn tại, nêu rõ những nguyên nhân chủ quan, khách quan. Trên cơ sở đó nghiên cứu xây dựng và thực hiện đề án Chính phủ điện tử, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Yêu cầu các Bộ, ngành và địa phương rà soát và nghiêm túc đánh giá kết quả thực hiện Đề án 112 tại Bộ, ngành, địa phương mình.
- Tăng cường tổ chức quản lý đội ngũ cán bộ để thực hiện nhiệm vụ ứng dụng và phát triển CNTT đối với công tác quản lý hành chính nhà nước và phục vụ yêu cầu xây dựng Chính phủ điện tử.
Đỗ Hữu Lương, 89 Láng Hạ, Đống Đa, Hà Nội; luongdh@fpt.com.vn
Chế độ chính sách cho những người hoạt động khoa học còn nhiều hạn chế, định hướng và giải pháp của Chính phủ như thế nào?
Trả lời:
Đảng và Nhà nước luôn luôn coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực để phát triển kinh tế-xã hội. Trong thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng hệ thống cơ chế chính sách, tạo môi trường thuận lợi để phát triển khoa học và công nghệ và mặc dù đất nước còn nghèo nhưng chúng ta đã tập trung đầu tư thích đáng cho khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, phải nghiêm túc nhìn nhận năng lực khoa học và công nghệ của chúng ta còn nhiều yếu kém, trình độ công nghệ còn thấp và lạc hậu, cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, trong đó, chưa có những chính sách hữu hiệu tạo động lực đối với cán bộ khoa học; chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, không khuyến khích cán bộ khoa học và công nghệ toàn tâm, toàn ý với sự nghiệp khoa học.
Một số giải pháp chủ yếu trong thời gian tới là:
- Tiếp tục đổi mới cơ chế và phương thức quản lý khoa học và công nghệ theo hướng xóa bỏ bao cấp, chuyển các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
- Rà soát và hoàn thiện các chính sách để tháo gỡ những vướng mắc, trì trệ trong hoạt động khoa học, trước hết là chính sách về tài chính và đầu tư cho khoa học và công nghệ.
- Rà soát và ban hành chính sách về bồi dưỡng, đào tạo và đãi ngộ đối với cán bộ khoa học. Trong đó, tập trung giải quyết vấn đề nhân lực khoa học và công nghệ cho các địa phương, nhất là vùng nông thôn, miền núi; xây dựng chính sách đãi ngộ tương xứng với các nhà khoa học tạo ra sản phẩm khoa học và công nghệ có giá trị lớn (hưởng thu nhập cao, có điều kiện làm việc tốt, được quyền chủ động hợp tác với các nhà khoa học nước ngoài...).
- Phân loại và chọn lọc một số viện, trường hoạt động có hiệu quả cao để tập trung đầu tư đạt trình độ khu vực.
- Tập trung phát triển có chọn lọc một số công nghệ trọng điểm bao gồm những công nghệ tiên tiến, có tác động to lớn tới các ngành kinh tế-kỹ thuật, bảo đảm quốc phòng-an ninh, tạo điều kiện hình thành và phát triển một số ngành nghề mới và phát huy được lợi thế của nước ta về tài nguyên và lực lượng lao động (như: CNTT, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến, công nghệ tự động hóa và cơ điện tử, công nghệ cơ khí và chế tạo máy, công nghệ chế biến, bảo quản nông sản thực phẩm).
Can Long Hai; Sinh viên cao dang; thoithoauhaiphuong1986@yahoo.com
Xin cho biết về đầu tư trong lĩnh vực khoa học công nghệ ở nước ta. Lĩnh vực đó đã được đầu tư đúng mức với tầm quan trọng của nó chưa?
Trả lời:
Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng tới việc phát triển khoa học và công nghệ, coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Điều này được thể hiện rất rõ qua việc mức vốn đầu tư phát triển dành cho khoa học và công nghệ trong những năm qua tăng lên rất nhanh. Cụ thể: năm 2005 đầu tư 1.750 tỷ đồng, năm 2006 đầu tư hơn 2.271 tỷ đồng (tăng 29,8% so với năm 2005) và năm 2007 dự kiến sẽ đầu tư 2.730 tỷ đồng (tăng hơn 20% so với năm 2006). Nguồn vốn này được đầu tư cho các cơ quan khoa học và công nghệ của các Bộ, ngành và các địa phương để tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học cho các cơ quan này.
Nhà nước cũng đã tập trung đầu tư xây dựng 17 Phòng thí nghiệm trọng điểm Quốc gia với mức vốn bình quân cho mỗi dự án khoảng 4- 6 triệu USD. Tính đến năm 2007 dự kiến sẽ có 80% Phòng thí nghiệm trọng điểm hoàn thành. Ngoài ra, Nhà nước cũng đã và đang tiến hành đầu tư cho các Khu công nghệ cao, các Chương trình kỹ thuật kinh tế về công nghệ vật liệu, công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa, công nghệ sinh học, v.v... nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của các địa phương và của cả nước.
Tuy nhiên, nhu cầu vốn để đầu tư cho khoa học và công nghệ là rất lớn và nếu chỉ dựa vào nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thì sẽ không thể đáp ứng được đầy đủ nhu cầu. Vì vậy, việc đẩy mạnh xã hội hóa trong đầu tư phát triển khoa học và công nghệ là hết sức cần thiết. Trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu để đề ra các giải pháp, cơ chế chính sách phù hợp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), khuyến khích mọi thành phần kinh tế và người dân tham gia đầu tư phát triển khoa học và công nghệ.
Khi thu hút được mạnh mẽ từ các nguồn vốn trên, khoa học và công nghệ Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ.
Lê Mạnh Thắng; Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội, lethang2006@yahoo.com
Các bệnh viện đầu ngành như Bạch Mai, Việt Đức, K, Nội tiết,..., vốn là những cơ sở từ nửa thế kỷ trước, hiện đang quá tải. Tình trạng chen lấn 2-3 bệnh nhân/giường bệnh là phổ biến. Việc xây dựng bệnh viện mới rất ít so với sự phát triển dân số và nhu cầu chữa bệnh của nhân dân. Nhà nước có giải pháp gì để giải quyết vấn đề này?
Trả lời:
Nhu cầu đầu tư phát triển các cơ sở y tế là rất lớn. Vốn đầu tư phát triển các cơ sở y tế hiện đang được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm: ngân sách Nhà nước, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư theo các chương trình mục tiêu quốc gia và của cả các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước khác.
Đến thời điểm này, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO) và đầu tư tư nhân cho khám chữa bệnh còn rất nhỏ bé (mới đạt 0,2 giường bệnh/10.000 dân so với số giường bệnh trung bình cả nước là 17,5 giường bệnh/10.000 dân). Hiện tượng “3-4 ca bệnh nằm chung một giường (như TP.Hồ Chí Minh và tại các thành phố lớn) là thực tế và cần được giải quyết. Bộ Y tế đã xây dựng 3 đề án lớn để tập trung đầu tư trong giai đoạn 2007-2010 là:
- Đề án Nâng cấp bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh và bệnh viện khu vực.
- Đề án Nâng cấp bệnh viện tuyến huyện.
- Đề án Nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa.
Để đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, Nhà nước đã và đang thực hiện chủ trương, ngoài nguồn ngân sách phải tranh thủ các nguồn đầu tư ODA nước ngoài, khuyến khích đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, thực hiện xã họi hóa trong hoạt động y tế, thực hiện các cơ chế chính sách khám chữa bệnh, chính sách viện phí, bảo hiểm y tế,.../.
___________________________