Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại phiên toàn thể của Hội nghị cấp cao về đại dương của Liên Hợp Quốc lần thứ 3 (UNOC 3) - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Là một quốc gia biển, là thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế nói chung và Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 nói riêng, Việt Nam rất coi trọng hợp tác quốc tế về biển và đã tham gia rất nhiều diễn đàn đa phương về biển, cả ở cấp độ khu vực và toàn cầu.
UNOC 3: Lời kêu gọi thúc đẩy hành động vì đại dương
Hội nghị Đại dương Liên Hợp Quốc, hay còn được gọi tắt là UNOC, là chuỗi hội nghị do Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc triệu tập khoảng 3 năm một lần, do một nước phát triển và một nước đang phát triển cùng đăng cai tổ chức, nhằm thúc đẩy các sáng kiến, giải pháp thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững số 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững biển và đại dương, biển và nguồn lợi biển (SDG 14) thuộc Chương trình Nghị sự về các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc (SDG).
Hội nghị UNOC 3 được Pháp và Costa Rica đồng chủ trì từ 9-13/6/2025 tại thành phố Nice, Cộng hòa Pháp, với chủ đề tổng thể là "Đẩy nhanh hành động và huy động tất cả các bên tham gia bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương". Hội nghị được tổ chức long trọng, quy mô và thiết thực gồm 10 phiên toàn thể song song với 10 phiên thảo luận chuyên đề, cùng các sự kiện bên lề, đặc biệt là Sự kiện Điều ước quốc tế đặc biệt để thúc đẩy các nước ký hoặc phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập Hiệp định về Bảo tồn và Sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại vùng nằm ngoài phạm vi tài phán quốc gia (Hiệp định BBNJ).
Trong bối cảnh biển và đại dương tiếp tục đối mặt nhiều nguy cơ, thách thức gây ra bởi biến đổi khí hậu và tác động từ con người như mực nước biển dâng, a-xít hóa đại dương, ô nhiễm rác thải nhựa, suy giảm nguồn lợi thủy sản… và thực tế đáng lo ngại là nguồn lực đầu tư cho việc thực hiện SDG 14 được đánh giá là thấp nhất trong các SDGs, việc tổ chức Hội nghị UNOC 3 với chủ đề nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện SDG 14.
Sự coi trọng của cộng đồng quốc tế đối với việc bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương thể hiện rõ nét qua việc tham gia đông đảo của khoảng 170 quốc gia và tổ chức liên quan, với hơn 40 Nguyên thủ và Thủ tướng các nước, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc và lãnh đạo các tổ chức quốc tế và khoảng 15.000 đại biểu.
Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Chính trị và ghi nhận hơn 560 cam kết tự nguyện mới tính đến ngày 15/6/2025, góp phần định hướng chính sách quản trị biển và đại dương toàn cầu, khu vực và quốc gia, kể cả chương trình hành động của các tổ chức quốc tế và khu vực liên quan đến biển. Kết quả này thể hiện cam kết chung nhằm khôi phục, bảo vệ và sử dụng bền vững đại dương. Tuyên bố Chính trị và các cam kết tự nguyện sẽ giúp đẩy nhanh hành động, thúc đẩy tất cả các bên liên quan có các giải pháp, sáng kiến nhằm hỗ trợ thực hiện SDG 14.
Các nước tham dự Hội nghị đều khẳng định quyết tâm thực hiện SDG 14, đề xuất nhiều biện pháp đổi mới, sáng tạo với cách tiếp cận toàn diện, và kêu gọi thúc đẩy hành động. Các chủ đề thảo luận tại Hội nghị rộng và đa dạng, và đều là những vấn đề mà cộng đồng quốc tế đang đối mặt và cần thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm thu hút, đa dạng hóa các nguồn lực về tài chính, khoa học – công nghệ để có thể giải quyết các thách thức và quản trị biển hiệu quả, mang lại lợi ích về phát triển lâu dài. Một số chủ đề nổi lên gồm vấn đề tăng cường đầu tư cho kinh tế biển xanh, vấn đề rác thải nhựa, khai thác tài nguyên đa dạng sinh học biển, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy tiến trình chuyển đổi xanh.
Thủ tướng Chính phủ thông báo việc Việt Nam đăng ký 15 cam kết tự nguyện trong các lĩnh vực khác nhau về quản trị biển và đại dương - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Việt Nam: Điểm sáng trong thực hiện SDG 14 và hợp tác quốc tế về biển
Là một quốc gia ven biển, với đường bờ biển dài trên 3.260 km và khoảng 4.000 hòn đảo lớn nhỏ, Việt Nam luôn nhận thức rõ ràng vai trò và tầm quan trọng của biển đối với hòa bình, an ninh và phát triển của đất nước. Việt Nam tích cực tham gia các nỗ lực toàn cầu về sử dụng bền vững biển và đại dương và được đánh giá là một trong những điểm sáng trong thực hiện các SDG.
Trên phạm vi toàn cầu, thứ hạng của Việt Nam về kết quả thực hiện các SDG liên tục tăng lên trong giai đoạn 2016 - 2024. Theo đó, Việt Nam từ xếp hạng 88/149 nước năm 2016 đã tăng lên 54/166 quốc gia được xếp hạng năm 2024. Về điểm số, năm 2024, chỉ số phát triển bền vững (SDI) của Việt Nam đạt 73,32 điểm, cao hơn mức trung bình toàn cầu. Điểm số và vị trí của Việt Nam có sự cải thiện so với xếp hạng được công bố năm 2023. Trong khu vực Đông và Nam Á, Việt Nam chỉ xếp sau Thái Lan. Điều này phản ánh nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện SDG[1].
Riêng đối với SDG 14, Việt Nam đã có nhiều biện pháp quyết liệt, mạnh mẽ triển khai thực hiện SDG 14 để bảo tồn và sử dụng bền vững môi trường biển. Việt Nam đã ban hành, hoàn thiện khung pháp luật và chính sách liên quan đến biển như Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo 2015; Luật Biển Việt Nam 2012, Luật Quy hoạch,… và tích cực triển khai thực hiện các công ước, điều ước, thỏa thuận quốc tế liên quan đến bảo tồn, quản lý và phục hồi hệ sinh thái biển như Công ước Đa dạng sinh học (CBD), Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế (Ramsar), Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Việt Nam tích cực đề xuất các sáng kiến, dự án thúc đẩy bảo tồn và sử dụng bền vững biển và đại dương, ví dụ như đăng ký cam kết tự nguyện thực hiện Mục tiêu 14.2 của SDG 14 "Phát triển và nhân rộng các khu vực được quản lý bởi cộng động/doanh nghiệp địa phương nhằm phục hồi và sử dụng bền vững các hệ sinh thái ở vùng biển ven bờ", theo đó các hoạt động của sáng kiến đã góp phần, ở cấp địa phương, tăng diện tích khu vực biển được bảo vệ hiệu quả, giảm đánh bắt bất hợp pháp trong các khu bảo tồn, xây dựng chính sách khuyến khích sự tham gia của các thành phần tư nhân trong quản lý và sử dụng bền vững nguồn lợi biển. Việt Nam đang nghiên cứu, xem xét xây dựng hệ thống các trạm quan trắc tổng hợp tài nguyên môi trường biển, trạm radar biển, trạm phao biển hiện đại, đồng bộ nhằm thực hiện Quy hoạch mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia giai đoạn 2016 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Việt Nam cũng rất chủ động tăng cường hợp tác quốc tế với nhiều cơ quan nghiên cứu của nước ngoài về khoa học biển, ví dụ như Trung tâm Nghiên cứu Khoa học quốc gia của Pháp (CNRS), Viện Nghiên cứu vì sự phát triển Pháp (IRD), Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Viện Khoa học biển của Philippines…
Tại các cơ quan, diễn đàn quốc tế về biển và đại dương, Việt Nam từng bước thể hiện vai trò nòng cốt, dẫn dắt thông qua việc được các nước tín nhiệm bầu giữ các vị trí quan trọng và đóng góp thực chất cho các tiến trình thảo luận về các vấn đề biển và đại dương như: Phó Chủ tịch Hội nghị các Quốc gia thành viên Công ước Luật Biển năm 2024, thành viên của Hội đồng Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương. Việt Nam cũng tiến cử các chuyên gia dày dạn kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao tham gia vào các cơ quan được thành lập trong khuôn khổ Công ước Luật Biển, trong đó có việc PGS.TS Đào Việt Hà trúng cử vào Uỷ ban Pháp lý và Kỹ thuật, Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương, và đề cử ứng viên cho vị trí thẩm phán Toà án quốc tế về Luật Biển (ITLOS) nhiệm kỳ 2026-2035. Tại Liên Hợp Quốc, Việt Nam cùng Phái đoàn đại diện của 11 nước đồng sáng lập Nhóm các nước bạn bè Công ước Luật Biển với hơn 120 nước thành viên từ tất cả các khu vực địa lý nhằm thúc đẩy việc thực thi Công ước.
UNOC 3: Dấu mốc quan trọng trên hành trình Việt Nam tham dự các diễn đàn đa phương về biển
Trên hành trình chung tay cùng cộng đồng quốc tế thúc đẩy hợp tác biển, UNOC 3 là Hội nghị đầu tiên mà Đoàn Việt Nam tham dự ở cấp Thủ tướng Chính phủ, cùng đoàn đại biểu cấp cao. Việt Nam đã đóng góp vào thành công chung của Hội nghị, đồng thời thể hiện tinh thần tích cực, chủ động, trách nhiệm và có nhiều đề xuất mang tính đột phá với nhiều dấu ấn đáng ghi nhận.
Dấu ấn thứ nhất là việc Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đại diện 10 nước thành viên ASEAN phát biểu tại một Hội nghị cấp cao đa phương của Liên Hợp Quốc trong lĩnh vực biển và đại dương. Đây là một minh chứng cho sự tín nhiệm của ASEAN đối với khả năng dẫn dắt của Việt Nam, đồng thời cho thấy bước phát triển mới trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam: Từ lúc chập chững tham gia các diễn đàn, cơ chế đa phương như Liên Hợp Quốc, ASEAN; giờ đây trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chúng ta đã có thể đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong một số lĩnh vực và thể hiện thành công hình ảnh Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Dấu ấn thứ hai là việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Hiệp định BBNJ với việc trao văn kiện phê duyệt Hiệp định tại Sự kiện Điều ước đặc biệt vào ngày đầu tiên của Hội nghị. Cùng với việc là một trong những quốc gia đầu tiên ký Hiệp định BBNJ, việc Việt Nam trao văn kiện phê duyệt vừa thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ đối với tiến trình Hội nghị UNOC, vừa góp phần truyền đi thông điệp sống động về một Việt Nam là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, chung tay cùng các quốc gia trên thế giới giải quyết các vấn đề toàn cầu liên quan đến biển và đại dương.
Dấu ấn thứ ba là Việt Nam là một trong những nước đưa ra nhiều cam kết tự nguyện nhất trong Hội nghị lần này. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã long trọng công bố Việt Nam đăng ký 15 cam kết tự nguyện về các vấn đề liên quan đến quản trị biển như thúc đẩy thực thi Công ước Luật Biển và các văn kiện liên quan, việc xây dựng các khu bảo tồn biển, việc quản lý tàu cá hiện đại, việc ứng dụng khoa học công nghệ trong bảo vệ môi trường biển… Qua đó, Việt Nam đã và đang cùng các đối tác hành động toàn diện, mạnh mẽ và ở nhiều cấp độ biện pháp khác nhau để hiện thực hóa SDG 14.
Dấu ấn thứ tư là việc Việt Nam tham gia dẫn dắt và có nhiều đóng góp thực chất cho Hội nghị. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đồng chủ trì Hội nghị Thượng đỉnh về các đồng bằng châu thổ cùng Tổng thống Iraq, có các bài phát biểu tại Phiên Toàn thể của Hội nghị cũng như tại Diễn đàn Tài chính và Kinh tế xanh tại Monaco trước thềm Hội nghị. Bên cạnh đó, trong số 10 phiên thảo luận chuyên đề, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn được mời làm đồng Chủ toạ cho Phiên thảo luận chuyên đề số 5 về Thúc đẩy quản lý nghề cá bền vững, bao gồm hỗ trợ ngư dân quy mô nhỏ cùng Bộ trưởng Bộ Bảo vệ môi trường và Chuyển đổi xanh của Croatia Marija Vučković. Đây là phiên thảo luận chuyên đề được quan tâm cao độ, với hơn 600 đại biểu và nhiều tham luận, thảo luận sôi nổi liên quan đến bảo đảm an ninh lương thực, sinh kế cho hàng tỷ người trên trái đất, cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế và hỗ trợ xây dựng năng lực, tài chính cho các nước đang phát triển. Đại diện của Đoàn Việt Nam đã vinh dự thay mặt hai đồng Chủ toạ của Phiên thảo luận chuyên đề số 5 trình bày báo cáo tóm tắt của Phiên này trước toàn thể đại biểu tại Phiên bế mạc Hội nghị UNOC 3.
Bên cạnh đó, PGS. TS. Nguyễn Thị Lan Anh, Phó Giám đốc Học viện Ngoại giao, ứng cử viên của Việt Nam cho vị trí thẩm phán của Toà án quốc tế về Luật Biển, được mời làm diễn giả tại Phiên chuyên đề số 10 về nâng cao việc bảo tồn và sử dụng đại dương và nguồn tài nguyên thông qua luật pháp quốc tế. PGS.TS Lan Anh đã có bài tham luận chất lượng, sâu sắc và toàn diện, góp phần định hướng cho các chính sách, hành động thúc đẩy thực thi luật pháp quốc tế. Đại diện các bộ, ngành của Việt Nam cũng tham gia phát biểu, thảo luận và thông tin về nỗ lực của Việt Nam trong việc quản trị bền vững biển và đại dương, thúc đẩy thực hiện SDG 14.
Dấu ấn cuối cùng và cũng rất đáng nhớ là sự đánh giá cao của bạn bè quốc tế đối với sự tham gia của Việt Nam. Trong các phát biểu tham luận hoặc kết luận của các phiên họp hoặc sự kiện, nhiều Lãnh đạo cấp cao các nước và các tổ chức quốc tế, như Tổng thống Pháp, Tổng thống Iraq, Tổng Giám đốc FAO… đều chia sẻ, đồng tình với quan điểm và đề xuất của Việt Nam hoặc ghi nhận những thành tựu về phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Phát biểu của Thủ tướng Chính phủ đại diện cho 10 nước thành viên ASEAN tại Hội nghị được nhiều tờ báo, bao gồm báo của Liên Hợp Quốc, trích dẫn và đăng tải. Đây chính là minh chứng cho chủ trương đúng đắn của ta trong mở cửa, hội nhập và đổi mới 40 năm qua.
Hội nghị UNOC 3 đã kết thúc tốt đẹp. Việt Nam đã có nhiều đóng góp cho Hội nghị nói riêng cũng như tiến trình Hội nghị Đại dương Liên Hợp Quốc nói chung. Thành công quan trọng của Việt Nam tại UNOC 3 một lần nữa cho thấy sự đúng đắn của đường lối, chính sách đối ngoại cũng như những nỗ lực to lớn trong việc triển khai các hoạt động đối ngoại của Việt Nam. UNOC 3 là một dấu mốc khó quên, và cũng là một nấc thang để chúng ta bước tiếp cao hơn, xa hơn trên con đường hội nhập và hợp tác quốc tế về biển và đại dương.
Ông FREDERIC THOMAS - nhà khoa học môi trường, Viện Nghiên cứu khoa học Pháp:
Tôi cho rằng bài phát biểu của Thủ tướng Việt Nam thể hiện một tín hiệu tích cực và thực sự cần thiết khi ông khẳng định rằng đại dương là tài sản chung toàn cầu và chỉ có các cuộc đàm phán quốc tế mới có thể quản trị một cách chính đáng.
PV
Ông SYLVAIN OUILLON - Nhà nghiên cứu hải dương học, Bảo tàng Tự nhiên Pháp:
Việt Nam đã có sự hiện diện nổi bật tại hội nghị lần này khi ngài Thủ tướng Việt Nam có bài phát biểu đại diện cho ASEAN. Thủ tướng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tri thức khoa học trong việc hỗ trợ ra quyết định chính trị. Điều này đặc biệt quan trọng đối với giới khoa học chúng tôi, vì muốn quản lý không gian biển thì cần hiểu rõ môi trường, đa dạng sinh học, mức độ ô nhiễm và sự biến đổi của hệ sinh thái biển.
Chăm sóc đại dương chính là chăm sóc tương lai của chúng ta, của con cháu và các thế hệ mai sau. Việt Nam cam kết mạnh mẽ tại hội nghị là một hành động quan trọng, thể hiện rõ ý chí của Việt Nam trong việc tham gia vào công cuộc quản trị đại dương.
PV
Thanh Hải
(Vụ Luật pháp và Điều ước quốc tế, Bộ Ngoại giao)
[1] Nguồn: https://dashboards.sdgindex.org/rankings