Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Ông nhận định thế nào về tình hình giải ngân vốn đầu tư công hiện nay?
Tiến sĩ Nguyễn Văn Vẹn: Khía cạnh điều hành kinh tế vĩ mô, đầu tư công là một trong những yếu tố quan trọng của tổng cầu vừa đóng vai trò là công cụ kích cầu tăng trưởng kinh tế, vừa thực hiện chức năng đầu tư của Nhà nước, điều tiết ổn định chỉ số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là một mắt xích quan trọng, khai thông dòng vốn đầu tư công là nhiệm vụ thường xuyên, ưu tiên hàng đầu của Chính phủ.
Thời gian qua, trên các phương tiện truyền thông, chủ đề giải ngân vốn đầu tư công khá "nóng", Chính phủ đã và đang chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành liên quan tham mưu thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, nhìn chung giải ngân vốn đầu tư công tiến triển khả quan, song chúng ta cũng nghiêm túc nhìn nhận rằng kết quả giải ngân vốn đầu tư công qua số liệu hàng năm cho thấy vẫn còn những hạn chế, chưa đạt được mục tiêu như kỳ vọng của Chính phủ.
Ông có thể nói rõ hơn về thực trạng công tác giải ngân vốn đầu tư công hiện nay?
Tiến sĩ Nguyễn Văn Vẹn: Thống kê tình hình giải ngân vốn đầu tư công qua 5 năm: Năm 2017, đầu tư công giải ngân đạt 73%, năm 2018 tỉ lệ này giảm xuống 66%, năm 2019 đạt 67%, năm 2020 là 82%, năm 2021 là 72% và năm 2022 đạt 67,27% kế hoạch. Số liệu cho thấy thực trạng giải ngân vốn đầu tư công ở Việt Nam đúng là bài toán nan giải.
Đây không phải là vấn đề mới mà đã được thảo luận qua nhiều năm nhưng chưa giải quyết được căn cơ, bởi vì quá trình giải ngân gắn với trách nhiệm pháp lý các bên liên quan. Mặc dù Chính phủ rất quyết liệt, song tình trạng chậm giải ngân xảy ra đồng loạt trên tất cả các lĩnh vực, ngành, địa phương thời gian qua là rất đáng báo động, hệ lụy của nó dẫn đến mất ổn định di chuyển dòng tiền trong vòng chu chuyển giá trị của nền kinh tế, thách thức lớn cho phát triển bền vững kinh tế. Quan sát thực trạng cho thấy tiến độ giải ngân vốn đầu tư công thường chậm vào những tháng đầu năm, giải ngân rơi vào những tháng cuối năm, gây ra áp lực cho điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ, đặc biệt trong bối cảnh Chính phủ và các địa phương đang triển khai lộ trình phục hồi và thúc đẩy phát triển kinh tế sau đại dịch COVID-19.
Vậy đâu là những nguyên nhân làm chậm công tác giải ngân vốn đầu tư công?
Tiến sĩ Nguyễn Văn Vẹn: Giải ngân chậm do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Khách quan là do công tác lập kế hoạch đầu tư vốn ngân sách Trung ương chưa sát với thực tế, công tác giải phóng mặt bằng tồn tại nhiều khó khăn vướng mắc, thủ tục thẩm định, phê duyệt, phức tạp, kéo dài, giá cả thị trường yếu tố sản xuất nói chung, thị trường nguyên vật liệu nói riêng biến động liên tục, do tác động của dịch COVID-19…
Nguyên nhân chủ quan là do chậm đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, nâng cao trách nhiệm các bên liên quan đến công tác giải ngân vốn đầu tư công.
Khía cạnh pháp lý liên quan như thế nào?
Tiến sĩ Nguyễn Văn Vẹn: Ở khía cạnh pháp lý, nhiều chính sách đã được ban hành kịp thời, rất quyết liệt như: Nghị quyết số 39 của Trung ương về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế; Luật Đầu tư công và nghị định chi tiết thi hành; Nghị định quy định về trình tự thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư; Nghị quyết của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022… Qua đó, cho thấy quyết tâm của cả hệ thống chính trị đối với vấn đề đầu tư công và giải ngân vốn đầu tư công.
Tuy nhiên, trên thực tế, cơ chế chính sách cho công tác giải ngân vốn đầu tư công vẫn còn những lỗ hổng cần tiếp tục hoàn thiện. Nhiều nơi, lĩnh vực, địa phương giải ngân còn chậm, dòng tiền đầu tư công rót vào các dự án đã và đang bị tắc nghẽn dẫn đến nhiều hệ lụy, tổn thương đến vận hành nền kinh tế, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội khác.
Thưa ông, vậy cần làm gì để lấp những lỗ hổng, hoàn thiện cơ chế, chính sách để hoạt động giải ngân vốn đầu tư công đúng với kế hoạch, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế-xã hội?
Tiến sĩ Nguyễn Văn Vẹn: Theo tôi Chính phủ cần khẩn trương đổi mới công tác giải ngân vốn đầu tư công, tập trung xây dựng khung tích hợp cả hai hệ thống đổi mới hoạt động giám sát và hệ thống nâng cao trách nhiệm giải ngân đầu tư công. Đây là một quá trình phức tạp của khoa học, công nghệ, chính sách, hệ thống và xây dựng mạng lưới đổi mới hoạt động giám sát nhằm tạo ra giá trị mới, tốt hơn trong hoạt động giám sát. Một số khuyến nghị cụ thể:
Thứ nhất, thông qua "hệ thống đổi mới hoạt động giám sát" có lộ trình đổi mới xây dựng hoàn thiện chức năng "ứng dụng khoa học và công nghệ" nhằm hiện đại hóa hoạt động giám sát và kiểm soát trách nhiệm giải ngân. Đổi mới hoạt động giám sát, nâng cao trách nhiệm các bên tham gia vào giải ngân vốn đầu tư công không chỉ là một bộ phận cấu thành của hệ thống đổi mới quốc gia, mà còn là yếu tố then chốt thúc đẩy hiệu quả quản lý vốn đầu tư công, hỗ trợ cơ bản cho phát triển hiện đại hóa quản trị quốc gia.
Chìa khóa để xây dựng một hệ thống đổi mới nâng cao trách nhiệm giải ngân là thúc đẩy việc tạo ra và phổ biến đổi mới ứng dụng công nghệ thông tin vào nâng cao trách nhiệm các bên liên quan (chuyển đổi số). Hệ thống đổi mới giám sát, kiểm soát nội bộ ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ là bộ phận cốt lõi trong trong khung đổi mới mà còn là động lực cơ bản của đổi mới khoa học và công nghệ trong quản lý điều hành tài chính công quốc gia.
Thứ hai, đổi mới chức năng "Thể chế và chính sách quản lý" trong "hệ thống đổi mới hoạt động giám sát". Như chúng ta đã biết, đổi mới không phụ thuộc vào một khía cạnh duy nhất của cải tiến, cũng không phải tự phát mà là kết quả của một quá trình có tổ chức, thể chế được sắp xếp, dữ kiện cơ chế chính sách được sâu chuỗi, phân tích thiết kế hiệu quả, luôn được cập nhật thay đổi phù hợp thực tiễn.
Thể chế và chính sách quản lý liên quan đến đầu tư công nói chung và hoạt động giám sát, trách nhiệm tham gia giải ngân các bên liên quan nói riêng cần đủ mạnh, minh bạch, trách nhiệm giải trình, đảm bảo mục tiêu giám sát tối ưu, hoạch định chính sách không dựa theo ý chí chủ quan của các nhà hoạch định. Đổi mới "thể chế và chính sách quản lý" bao gồm: đổi mới con người tham gia hoạch định chính sách (chuyên sâu, công tâm, thấu hiểu, tránh tham nhũng trong chính sách); tạo ra công cụ để nhận biết vấn đề và xác lập ưu tiên của việc xử lý vấn đề giám sát, kiểm soát nội bộ để thấy rõ những mặt được, mất của chính sách và các hệ quả có liên quan nhằm phục vụ dự báo, phòng ngừa sai phạm, nâng cao trách nhiệm các bên tham gia giải ngân vốn đầu tư công hiệu quả, quá trình hoạch định cần có sự tham gia giám sát, kiểm soát của các bên liên quan.
Thứ ba, đổi mới "mạng lưới giám sát trung gian", tăng cường hoạt động giám sát của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong thực hiện chính sách ở cơ sở. Mạng lưới giám sát trung gian dựa vào đổi mới hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc, HĐND các cấp, các tổ chức được trao quyền và cam kết trách nhiệm của các bên liên quan như nhà đầu tư, bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp (chú trọng đến yêu cầu chuyên môn, năng lực chuyên sâu, kỹ năng giám sát,…).
Qua hệ thống đổi mới mạng lưới giám sát trung gian, lực lượng giám sát liên quan từ trung ương đến địa phương có thể được huy động mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực và được kiểm soát thúc đẩy hiệu quả hoạt động giám sát. Đây là khâu quan trọng, cần đột phá mang tính chiến lược góp phần giám sát quản lý đầu tư công hiệu quả.
Thứ tư, tiếp cận toàn diện "trách nhiệm các bên liên quan" là cơ sở thúc đẩy giam gia giải ngân bền vững. Các bước tiến hành trong hoạt động giải ngân cần đảm bảo tính pháp lý của "hệ thống nâng cao trách nhiệm giải ngân đầu tư công", bao gồm: Một là, "duy trì kiểm soát trách nhiệm giải ngân" đóng vai trò là trung tâm thông tin kiểm soát mọi tiến trình giải ngân hoạt động đầu tư công, nơi cung cấp thông tin quản lý toàn diện tình hình hoạt động giải ngân đầu tư công quốc gia, đảm bảo trách nhiệm giải ngân được duy trì, trách nhiệm được kiểm soát. Chức năng duy trì, kiểm soát trách nhiệm giúp cá nhân, cơ quan có thẩm quyền kiểm soát, nâng cao trách nhiệm các bên liên quan tham gia vào quá trình giải ngân. Chức năng duy trì kiểm soát trách nhiệm giải ngân được thiết kế sao cho đảm bảo thông tin chính xác và đáng tin cậy về hoạt động giải ngân, có cảnh báo chậm trễ tiến độ giải ngân theo quy định. Việc kiểm soát quá trình giải ngân của các bên tham gia một cách toàn diện sẽ giúp công tác giải ngân không bị đình trệ, thất thoát hoặc xảy ra sai sót; Hai là, thiết lập chức năng "cam kết trách nhiệm giải ngân", đây là chức năng quan trọng, xoay quanh trách nhiệm giải ngân vốn đầu tư công đúng tiến độ, cũng như việc thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ cam kết. Cam kết trách nhiệm chịu sự chế tài trước các quy định hiện hành và làm cơ sở đánh giá thực thi nhiệm vụ giải ngân; Ba là, chức năng "trách nhiệm giải trình" được thiết lập bao gồm 6 yếu tố: (1) Các cá nhân tham gia giải ngân vốn đầu tư công là người phải chịu trách nhiệm giải trình; (2)Trách nhiệm giải trình báo cáo với cơ quan giám sát hoặc có thẩm quyền liên quan; (3) Trách nhiệm giải trình tập trung vào nội dung chậm tiến độ giải ngân vốn đều tư công; (4) Quá trình chứng minh trách nhiệm giải trình diễn ra minh bạch, nghiêm túc; (5) Cơ quan và tổ chức giám sát thiết lập tiêu chuẩn để đánh giá trách nhiệm giải trình (6) Cơ chế kiểm soát giải trình tránh hình thức, qua loa; Bốn là, cơ chế, chính sách "đánh giá (khen thưởng - chế tài) thực thi công tác tham gia giải ngân vốn đầu tư công được đánh giá qua hai hình thức hoàn thành công tác giải ngân gắn với chính sách động viên khen thưởng, chậm trễ tiến độ công tác giải ngân do yếu tố chủ quan gắn với cơ chế chế tài theo quy định của pháp luật. Cơ chế đánh giá này thực chất là đo lường mức độ đạt được hiệu quả của các bên tham gia vào giải ngân vốn đầu tư công thông qua thiết lập các chỉ số đánh giá. Tất cả những nội dung trên đây là hàm ý đổi mới công tác giải ngân vốn đầu tư công, trên cơ sở đó Chính phủ ra quyết định ban hành chính sách đổi mới hoạt động giám sát và nâng cao trách nhiệm của các bên tham gia vào quá trình giai ngân vốn đầu tư công.
Cuối cùng, việc tăng cường đổi mới hoạt động giám sát gắn với trách nhiệm các bên liên quan trong giải ngân vốn đầu tư công thông qua "Khung tích hợp hệ thống đổi mới hoạt động giám sát và nâng cao trách nhiệm giải ngân đầu tư công" không chỉ là công cụ hữu ích tạo ra sự ổn định công tác giải ngân vốn đầu tư công quốc gia mà còn là nền tảng đánh giá công bằng, tạo ra động lực cho các bên tham gia giải ngân, hình thành văn hóa trách nhiệm, minh bạch giải ngân vốn đầu tư công bền vững.
Xin cảm ơn ông!
Ngọc Tấn