• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 11/8

(Chinhphu.vn) - Văn phòng Chính phủ vừa có thông cáo báo chí Chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 11/8/2022.

12/08/2022 09:11

Hỗ trợ giáo viên mầm non, tiểu học ngoài công lập gặp khó khăn do đại dịch COVID-19

Trước ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đối với ngành Giáo dục, đặc biệt là giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học ngoài công lập, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 11/8/2022 quyết nghị thực hiện chính sách hỗ trợ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trong các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học ngoài công lập gặp khó khăn do đại dịch COVID-19.

Mục tiêu là hỗ trợ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên làm việc tại cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập gặp khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, giúp ổn định đội ngũ, tránh đứt gãy nguồn cung ứng nhân lực có kinh nghiệm cho các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập, bảo đảm an toàn cho trẻ em và học sinh, giúp phụ huynh có con trong độ tuổi mầm non, tiểu học yên tâm tham gia lao động, góp phần để các doanh nghiệp phục hồi sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống và an sinh xã hội.

Đối tượng được hỗ trợ

Theo Nghị quyết, đối tượng được hỗ trợ gồm: Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên làm việc tại cơ sở giáo dục mầm non thuộc loại hình tư thục, dân lập; cơ sở giáo dục tiểu học tư thục; trường mẫu giáo, mầm non SOS, trường tiểu học Hermann Gmeiner trong hệ thống Làng trẻ em SOS Việt Nam được cấp có thẩm quyền cấp phép thành lập và hoạt động theo quy định phải tạm dừng hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch COVID-19 (cơ sở giáo dục ngoài công lập).

Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên được hưởng chính sách khi bảo đảm các điều kiện sau:

- Là người đang làm việc tại cơ sở giáo dục ngoài công lập trước khi cơ sở phải tạm dừng hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch COVID-19 tính từ ngày 1/5/2021 đến hết ngày 31/12/2021;

- Nghỉ việc không hưởng lương từ 01 tháng trở lên tính từ ngày 01/5/2021 đến hết ngày 31/12/2021;

- Chưa được hưởng chính sách hỗ trợ đối với người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương theo quy định tại khoản 4, 5, 6 Mục II Nghị quyết số 68/NQ-CP do không tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc;

- Có xác nhận làm việc tại cơ sở giáo dục ngoài công lập (bao gồm cơ sở giáo dục ngoài công lập đã làm việc trước đây hoặc cơ sở giáo dục ngoài công lập khác trong trường hợp cơ sở giáo dục ngoài công lập trước đây làm việc không hoạt động trở lại) ít nhất hết năm học 2021 - 2022.  

Mức hỗ trợ

Nghị quyết nêu rõ hỗ trợ một lần mức 3.700.000 đồng/người áp dụng với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên chưa được hưởng chính sách của địa phương hỗ trợ đối với nhóm lao động không có giao kết hợp đồng lao động và một số đối tượng đặc thù khác theo quy định tại khoản 12 Mục II Nghị quyết số 68/NQ-CP;

Hỗ trợ một lần mức 2.200.000 đồng/người áp dụng với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên đã được hưởng chính sách của địa phương theo quy định tại khoản 12 Mục II Nghị quyết số 68/NQ-CP.

Thời gian thực hiện đến hết ngày 31/12/2022.

Nguyên tắc hỗ trợ 

Nghị quyết yêu cầu việc hỗ trợ phải bảo đảm đúng đối tượng, công khai, minh bạch, không để lợi dụng, trục lợi chính sách; tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính để cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập dễ dàng tiếp cận chính sách.

Không hỗ trợ đối tượng đã được hưởng chính sách đối với người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương theo quy định tại khoản 4, 5, 6 mục II Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021, Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 của Chính phủ (Nghị quyết số 68/NQ-CP); không hỗ trợ đối tượng tự nguyện không tham gia; nếu đủ điều kiện hưởng nhiều chính sách thì chỉ giải quyết hỗ trợ theo chính sách cao nhất.

Việc hỗ trợ phải bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của các chính sách và nguồn lực để thực hiện; phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành, địa phương, căn cứ vào điều kiện cụ thể để linh hoạt triển khai, đảm bảo mục tiêu, nguyên tắc và kịp thời các chính sách hỗ trợ.

Nghị quyết quy định việc hỗ trợ ngân sách nhà nước thực hiện như sau:

Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ động sử dụng 50% nguồn dự phòng ngân sách địa phương (bao gồm cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã) và 70% quỹ dự trữ tài chính địa phương để thực hiện theo các nguyên tắc, chế độ hỗ trợ quy định tại Nghị quyết này.

- Ngân sách trung ương hỗ trợ các địa phương còn lại theo nguyên tắc:

+ 80% mức thực chi theo quy định tại Nghị quyết này đối với các tỉnh miền núi, Tây Nguyên.

+ 60% mức thực chi theo quy định tại Nghị quyết này đối với các tỉnh chưa tự cân đối ngân sách còn lại (ngoài các tỉnh miền núi, Tây Nguyên).

+ 40% mức thực chi theo quy định tại Nghị quyết này đối với các tỉnh, thành phố có tỷ lệ điều tiết các khoản thu phân chia về ngân sách trung ương còn lại.

Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ động sử dụng 50% nguồn dự phòng ngân sách địa phương (bao gồm cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã) và 70% quỹ dự trữ tài chính địa phương để thực hiện theo các nguyên tắc, chế độ hỗ trợ quy định tại Nghị quyết này.


Thủ tướng yêu cầu Bộ GTVT nghiên cứu kiến nghị của Cổng TTĐT Chính phủ về thu phí không dừng 

 Văn phòng Chính phủ đã có văn bản số 5104/VPCP-CN ngày 11/8/2022 truyền đạt ý kiến của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu xem xét kiến nghị của Cổng Thông tin điện tử Chính phủ về thu phí không dừng để có phương án xử lý phù hợp. Tọa đàm "Thu phí không dừng-Quyền lợi và trách nhiệm" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 29/7/2022 với các ý kiến phân tích tại tọa đàm được đánh giá cần thiết, giải đáp được phần nào thắc mắc của người dân trước thời điểm dịch vụ thu phí tự động không dừng ETC chính thức triển khai rộng rãi trên toàn quốc từ ngày 1/8. Cuộc tọa đàm nhấn mạnh vào các lợi ích trực tiếp và gián tiếp của hệ thống thu phí ETC đồng thời phản ánh các bất cập, trục trặc xảy ra khi được đưa vào triển khai rộng khắp trên toàn quốc.

Trên cơ sở tổng hợp tình hình thông tin báo chí dư luận liên quan đến Tọa đàm, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo:

- Bộ Giao thông vận tải tiếp tục chủ trì, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và phối hợp hướng dẫn, xử lý các vấn đề bất cập, phát sinh trong quá trình triển khai thu phí không dừng trên các tuyến cao tốc, nhất là đối với các tuyến giao thông huyết mạch lớn, không để xảy ra tình trạng tắc nghẽn lưu thông, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội.

Chỉ đạo các nhà đầu tư, các địa phương khẩn trương rà soát, khắc phục các lỗi chủ quan, nhất là lỗi không nhận diện được thẻ; tăng cường nhân viên có kinh nghiệm trực đường dây nóng để kịp thời hỗ trợ chủ phương tiện chuyển đổi tài khoản, kích hoạt tài khoản và xử lý các tình huống phát sinh; có phương án kế hoạch trong trường hợp ùn tắc cục bộ nghiêm trọng, kéo dài. Các công ty tiếp tục hoàn thiện phần mềm và đưa ra nhiều giải pháp thiết thực để xử lý các vấn đề phát sinh, bảo đảm thuận tiện nhất cho người dân tham gia giao thông.

- Bộ Thông tin và Truyền thông, các cơ quan thông tấn báo chí phối hợp với Bộ Giao thông vận tải tập trung, chú trọng công tác tuyên truyền, vận động để người dân thấy lợi ích của thu phí không dừng, đảm bảo đủ các điều kiện khi đi vào đường cao tốc (tìm hiểu thông tin về lộ trình để nạp đủ tiền trong tài khoản khi lưu thông qua trạm thu phí); kịp thời nắm bắt các vướng mắc, khó khăn của người dân liên quan đến thu phí không dừng, phản ánh khách quan, trung thực, kịp thời để có biện pháp tháo gỡ ngay tại địa bàn cơ sở.

Xét các kiến nghị trên của Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu xem xét để có phương án xử lý phù hợp.

  Xem xét kiến nghị về quản lý vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt Tại văn bản 5105/VPCP-CN ngày 11/8/2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu xem xét, chỉ đạo đối với các kiến nghị của Cổng Thông tin điện tử Chính phủ về quản lý vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt.

Ngày 25/7/2022, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ đã tổ chức Tọa đàm "Để xe buýt thực sự là một lựa chọn văn minh" để thảo luận về những tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực vận tải xe buýt và đề xuất giải pháp cho các nhà quản lý, cũng như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân, nhất là phục vụ tốt hơn cho người dân ở các thành phố lớn.

Cuộc Tọa đàm nhấn mạnh ý kiến là phải tổ chức đấu thầu để chọn những doanh nghiệp có chất lượng, chứ không thể nào do quan hệ quen biết, thân thiết mà chọn theo cách chỉ định thầu. Mặt khác, cần tính toán cách thức trợ giá để bảo đảm khuyến khích dịch vụ phục vụ người dân tốt hơn để được trợ giá nhiều hơn, đó mới là hướng trợ giá hiệu quả. Đây là giải pháp hết sức hệ trọng để phát triển giao thông công cộng, đồng thời cũng là phát triển kinh tế xã hội của địa phương…

Trên cơ sở tổng hợp tình hình thông tin báo chí dư luận liên quan đến Tọa đàm, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo:

- Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu xây dựng quy hoạch, kế hoạch khoa học, nâng cao chất lượng hệ thống xe buýt, phát triển các loại hình vận tải hành khách công cộng, hạn chế xe cá nhân, phát triển giao thông đô thị bền vững, xây dựng lối sống văn minh; đẩy mạnh sử dụng phương tiện thân thiện với môi trường; phát triển xã hội hóa xe buýt vận hành theo chuẩn mực thị trường để giảm gánh nặng cho ngân sách. Không bao cấp xin-cho nữa mà để doanh nghiệp tự quyết định chất lượng dịch vụ, những gì xã hội làm được thì phải ủng hộ xã hội làm.

- Bộ Thông tin Truyền thông chỉ đạo các cơ quan báo chí tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận trong xã hội về việc hạn chế phương tiện cá nhân để phát triển phương tiện công cộng bền vững, văn minh.

- Thanh tra Chính phủ cần thanh tra việc trợ giá xe buýt ở các thành phố lớn để làm rõ: Ai được hưởng lợi từ trợ giá, có thất thoát hay không ngân sách nhà nước khi chỉ định thầu các đơn vị vận tải được trợ giá? Trong khi mỗi năm nhà nước trợ giá hàng nghìn tỷ đồng trợ giá xe buýt nhưng chất lượng không tăng hơn.

- Các địa phương nghiên cứu lập quy hoạch phát triển xe công cộng trên địa bàn; đẩy mạnh việc giám sát đảm bảo chất lượng phục vụ hành khách, bảo đảm chính sách phục vụ người dân, trong đó có đối tượng người khuyết tật, người yếu thế.

- Việc tổ chức đấu thầu các tuyến xe buýt cần được thực hiện công khai, minh bạch để thu hút các doanh nghiệp uy tín tham gia "Nhà nước phải thay nhân dân tìm được nhà thầu tốt nhất. Đấu thầu phải đàng hoàng, không được quân xanh, quân đỏ, phát nổ phát xịt". 

- Giá cả dịch vụ xe buýt phải được tính đúng, tính đủ, phù hợp với nhu cầu của từng tầng lớp khách hàng; việc kê khai giá, quản lý giá phải được thực hiện minh bạch, đúng pháp luật.

- Bộ Giao thông cần xây dựng bộ tiêu chí, quy chuẩn, quy định về chất lượng xe buýt, tổ chức đánh giá thường xuyên, có chế tài để xử phạt nếu có vi phạm. Cần xây dựng các cơ chế để khuyến khích doanh nghiệp, các đơn vị vậ tải nhiều thành phần tham gia vào ngành dịch vụ này.

- Cần có cách tính trợ giá phù hợp, theo sát với thực tế, hiệu quả, "phải rất thông minh trong việc cung cấp trợ giá. Cung cấp trợ giá phải khuyến khích phục vụ người dân tốt hơn".

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đề nghị Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu xem xét, chỉ đạo đối với các kiến nghị của Cổng Thông tin điện tử Chính phủ nêu trên.


Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Nghệ An

Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo số 244/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Nghệ An.

Thông báo nêu rõ: Nghệ An là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới; là vùng đất "Địa linh, nhân kiệt" có bề dày lịch sử văn hóa và truyền thống cách mạng, gắn liền với tên tuổi nhiều nhà cách mạng tiền bối, danh nhân, chí sỹ yêu nước, có truyền thống hiếu học, cần cù, đoàn kết, có một số tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh để phát triển.

Trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc tỉnh Nghệ An đã nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn và đạt những thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào kết quả chung của cả nước. Năm 2021, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng 6,2%; thu ngân sách nhà nước đạt gần 19.000 tỷ đồng, tăng 35% kế hoạch; xuất khẩu đạt 2,43 tỷ USD, tăng 60,77% so với năm 2020...

Nghệ An là một trong những tỉnh tiêu biểu của cả nước có phương pháp, cách làm chủ động, sáng tạo trong xây dựng nông thôn mới. Các lĩnh vực giáo dục, văn hoá, thể thao, thông tin truyền thông có nhiều tiến bộ. Công tác xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người lao động và người sử dụng lao động chịu ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, đảm bảo an sinh, phúc lợi xã hội được triển khai có hiệu quả…

Tuy nhiên, phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế như: Thu hút đầu tư tuy có đổi mới nhưng chưa tạo được đột phá, chưa có nhiều doanh nghiệp lớn đầu tư vào địa bàn. Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn...

Nhận thức đầy đủ, sâu sắc vị trí, vai trò, lợi thế hiếm có của Nghệ An

Trong thời gian tới, dự báo tình hình thế giới và trong nước có những thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen nhưng thách thức, khó khăn nhiều hơn, tác động không nhỏ tới đất nước ta nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng. Để khắc phục các tồn tại, hạn chế và phát huy, khai thác hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh, tạo bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu tỉnh Nghệ An cần xác định rõ mục tiêu, quan điểm và chủ động tập trung thực hiện quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Nghị quyết số 36/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An; các Nghị quyết, Chương trình hành động của Chính phủ. Tỉnh chú trọng hơn nữa công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu của cơ sở đảng và đảng viên; thực hiện thật tốt 5 nguyên tắc và 5 phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; rà soát lại những việc cần làm và khẩn trương chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả.

Đồng thời, Tỉnh kế thừa những thành quả đạt được qua các thời kỳ, tiếp tục phát huy nguồn lực từ truyền thống lịch sử, văn hóa, con người cho phát triển kinh tế - xã hội; nhận thức đầy đủ, sâu sắc, vị trí, vai trò, lợi thế hiếm có của Nghệ An trong khu vực Bắc Trung Bộ và cả nước; tiếp tục đào sâu suy nghĩ, thúc đẩy tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược, nỗ lực cao hơn, quyết tâm lớn hơn, hành động quyết liệt, hiệu quả, có trọng tâm trọng điểm, làm việc nào dứt điểm việc đó, có cơ chế huy động mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là phương thức hợp tác công tư, phấn đấu hoàn thành và vượt các mục tiêu nhiệm vụ nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra. 

Thực hiện ba đột phá chiến lược

Cùng với cả nước, Tỉnh phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, chống suy thoái kinh tế, bảo đảm 5 cân đối lớn; phòng, chống dịch COVID-19, nhất là tiêm vaccine phòng COVID-19 cho người dân theo Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 17/3/2022 của Chính phủ về chương trình phòng, chống dịch COVID-19; thúc đẩy mạnh mẽ hiệu quả hơn nữa công tác quy hoạch, giải ngân đầu tư công; tổ chức triển khai thực hiện 03 Chương trình mục tiêu quốc gia và Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.

Thủ tướng yêu cầu tỉnh Nghệ An phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo các Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đất đai, kinh tế tập thể, nông nghiệp, nông thôn, nông dân; thực hiện ba đột phá chiến lược, trong đột phá về hạ tầng giao thông có các dự án mở rộng Cảng hàng không quốc tế Vinh, Cảng nước sâu Cửa Lò, tuyến đường bộ cao tốc nối thị xã Cửa Lò - thành phố Vinh đi huyện Nam Đàn - quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh; phấn đấu hoàn thành thủ tục đầu tư 03 dự án trong năm 2022; sớm kết nối các công trình giao thông này với hệ thống hạ tầng khác để Nghệ An phát triển.

Tập trung thực hiện sớm quy hoạch mở rộng địa giới hành chính thành phố Vinh 

Thủ tướng yêu cầu tập trung xây dựng quy hoạch tỉnh Nghệ An thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 căn cơ, bài bản, có giải pháp đột phá chiến lược, khơi thông các điểm nghẽn phát triển với tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược, phát huy tiềm năng, lợi thế và hóa giải những khó khăn, bất cập, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, đa dạng hóa các chuỗi cung ứng và hoàn thiện công tác lập, thẩm định quy hoạch tỉnh Nghệ An trong quý III năm 2022; tập trung thực hiện sớm quy hoạch mở rộng địa giới hành chính thành phố Vinh để có định hướng phát triển bền vững, lâu dài.

Nâng cao chất lượng và phát huy tối đa nguồn nhân lực; cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư để thu hút doanh nghiệp đến đầu tư trên địa bàn; phát triển văn hóa ngang tầm với kinh tế, chính trị, xã hội; nghiên cứu, tổ chức các hoạt động văn hóa có sức hút, sức lan tỏa mạnh mẽ như Ngày hội Làng Sen, Liên hoan dân ca Ví Dặm.

Cùng với đó, phát triển kinh tế - xã hội gắn kết chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng - an ninh, ổn định chính trị trật tự an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả xây dựng và hoạt động phòng thủ; giữ vững chủ quyền biên giới, biển đảo; tăng cường công tác tôn giáo, dân tộc; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, cuộc sống ấm no, hạnh phúc, bình yên của nhân dân…


Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân

Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh vừa ký Quyết định số 977/QĐ-TTg phê duyệt Đề án "Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân".

Mục tiêu chung của Đề án là xây dựng, tổ chức triển khai kịp thời, hiệu quả, toàn diện các giải pháp, nhiệm vụ nhằm tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc bảo đảm, hỗ trợ người dân tiếp cận pháp luật, góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tuân theo pháp luật, sử dụng pháp luật của người dân để thực hiện quyền, bảo vệ lợi ích hợp pháp, hình thành thói quen, văn hóa sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận pháp luật

Đề án cũng đặt ra các mục tiêu cụ thể hoàn thành việc rà soát, đề xuất chính sách, thể chế liên quan đến tiếp cận pháp luật của người dân bảo đảm đồng bộ, hiệu quả, khả thi, phù hợp với từng giai đoạn; nhận thức, trách nhiệm và thói quen tìm hiểu, sử dụng và tuân theo pháp luật của người dân, đặc biệt là đối tượng đặc thù, trẻ em, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo được nâng cao.

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh được bảo đảm các điều kiện để thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận pháp luật.

Đồng thời, nâng cao năng lực giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận trong hỗ trợ người dân tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật.

Các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội và các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp được nâng cao năng lực, phát huy trách nhiệm xã hội trong việc hỗ trợ thông tin pháp luật, tư vấn pháp luật cho người dân.

Để đạt được các mục tiêu trên, Đề án đặt ra 5 nhiệm vụ và giải pháp gồm: 1- Rà soát, nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện chính sách, thể chế bảo đảm, hỗ trợ người dân tiếp cận pháp luật; 2- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, hình thành thói quen tìm hiểu, sử dụng và tuân theo pháp luật của người dân; 3- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh; 4- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận pháp luật; 5- Đầu tư, hỗ trợ nguồn lực, công nghệ thông tin bảo đảm cho các hoạt động phục vụ yêu cầu tiếp cận pháp luật của người dân của các cơ quan, tổ chức.

Thiết lập các điều kiện cần thiết cho người dân chủ động tiếp cận thông tin pháp luật

Trong đó, về rà soát, nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện chính sách, thể chế bảo đảm, hỗ trợ người dân tiếp cận pháp luật, Đề án đặt ra nhiệm vụ rà soát, nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, chuẩn tiếp cận pháp luật, tiếp cận thông tin để đổi mới nội dung, phương thức thực hiện theo hướng Nhà nước thiết lập các điều kiện cần thiết cho người dân chủ động tiếp cận thông tin pháp luật.

Đồng thời, rà soát, nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện các chính sách, quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý, bổ trợ tư pháp để tạo cơ sở huy động nguồn lực xã hội, phát huy vai trò, trách nhiệm xã hội của các tổ chức và thành viên.

Bên cạnh đó, nghiên cứu, học tập kinh nghiệm nước ngoài phục vụ hoàn thiện chính sách, thể chế và các mô hình nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của người dân.

Đầu tư, hỗ trợ nguồn lực, công nghệ thông tin

Một trong các nhiệm vụ cụ thể khác là bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, các phương tiện, thiết bị phục vụ các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, các chương trình, đề án được giao.

Bố trí kinh phí cho các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, tổ chức đại diện của đối tượng đặc thù để phát huy vai trò của các tổ chức này trong hỗ trợ, nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của người dân.

Phát huy trách nhiệm xã hội, sự chủ động của các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp để triển khai hiệu quả hoạt động hỗ trợ người dân tiếp cận pháp luật.

Đề án được triển khai thực hiện từ năm 2023 – 2030 trong phạm vi cả nước.


Phê duyệt Đề án "Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thu thập thông tin, dự báo tình hình thị trường nông sản".

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành đã ký Quyết định số 975/QĐ-TTg ngày 11/8/2022 phê duyệt Đề án "Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thu thập thông tin, dự báo tình hình thị trường nông sản".

Đề án đặt mục tiêu cụ thể đến năm 2025 hoàn thành xây dựng trung tâm dữ liệu tập trung của ngành nông nghiệp (data warehouse/kho dữ liệu) chuyên sâu phục vụ phân tích và dự báo tình hình thị trường nông sản; hoàn thành xây dựng công cụ, phần mềm phục vụ thu thập thông tin, phân tích, dự báo tình hình thị trường các sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia và sản phẩm có tiềm năng phát triển quy mô lớn.

Hoàn thành thiết lập hệ thống mạng lưới cung cấp, kết nối thông tin thường xuyên, định kỳ về trung tâm dữ liệu tập trung; 100% cán bộ thuộc hệ thống mạng lưới được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu vận hành hệ thống. 

Thông tin, dữ liệu về tình hình thị trường nông sản được thu thập thường xuyên phục vụ phân tích, dự báo, đảm bảo tính thống nhất, chính xác và kịp thời cung cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp và các hợp tác xã.

Xây dựng trung tâm dữ liệu chuyên sâu phục vụ phân tích, dự báo tình hình thị trường nông sản

Đề án đề ra nhiệm vụ và giải pháp là xây dựng và vận hành trung tâm dữ liệu tập trung của ngành nông nghiệp (data warehouse/kho dữ liệu) chuyên sâu, phục vụ phân tích và dự báo tình hình thị trường nông sản.

Cụ thể, rà soát, chuẩn hóa nguồn dữ liệu; thiết kế kiến trúc dữ liệu cho hệ thống thông tin thị trường nông sản đảm bảo thống nhất, đồng bộ, có khả năng liên thông, kết nối, chia sẻ để nâng cao hiệu quả hoạt động trong thu thập thông tin, dữ liệu, phân tích và dự báo thị trường nông sản. Đảm bảo hệ thống thông tin thị trường nông sản được tích hợp trong tổng thể hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành nền tảng phục vụ chuyển đổi số của ngành nông nghiệp, phù hợp với Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam.

Bên cạnh đó, rà soát, hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin của các bộ, cơ quan liên quan và các địa phương; lồng ghép, kế thừa, khai thác hiệu quả tài nguyên, hạ tầng sẵn có và hạ tầng được đầu tư theo các chương trình, đề án, dự án liên quan về công nghệ thông tin, chuyển đổi số, đáp ứng yêu cầu tích hợp, kết nối, chia sẻ phục vụ việc thu thập và lưu trữ thông tin, dữ liệu về phân tích và dự báo thị trường nông sản.

Tổ chức xây dựng và phát triển hệ thống mạng lưới cung cấp, kết nối thông tin thị trường nông sản thường xuyên, định kỳ về trung tâm dữ liệu tập trung; triển khai các biện pháp bảo đảm an toàn thông tin theo đúng quy định của pháp luật về an ninh, an toàn thông tin; phòng, chống phần mềm độc hại; quản lý và giám sát an toàn thông tin; bảo mật dữ liệu, bảo đảm cơ chế sao lưu và phục hồi dữ liệu.

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo dự báo biến động về cung, cầu, giá cả vật tư, sản phẩm nông nghiệp

Nhiệm vụ và giải pháp khác của Đề án là ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập thông tin, phân tích và dự báo tình hình thị trường nông sản.

Cụ thể, ứng dụng công nghệ thông tin, các công nghệ, thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong hoạt động thu thập thông tin, phân tích và dự báo tình hình thị trường nông sản từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ đối với các sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia và tiềm năng.

Về thu thập thông tin, dữ liệu, xây dựng hệ thống phần mềm phục vụ thu thập thông tin, dữ liệu về sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản (diện tích, sản lượng, năng lực chế biến, nhu cầu, giá cả, khối lượng, cơ cấu tiêu thụ sản phẩm, vật tư, nguyên liệu đầu vào…); ứng dụng công nghệ viễn thám để thu thập dữ liệu, thống kê diện tích, sản lượng đối với ngành hàng trồng trọt, lâm nghiệp; ứng dụng công nghệ số trong thực hiện điều tra, thu thập thông tin, dữ liệu của các ngành hàng chăn nuôi, thủy sản.

Bên cạnh đó, kết nối, chia sẻ cơ sở dữ liệu đa ngành (Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công Thương…) để thu thập, cập nhật thông tin, dữ liệu liên quan đảm bảo đáp ứng yêu cầu phục vụ phân tích, dự báo chuyên sâu, chính xác, kịp thời tình hình thị trường nông sản; xây dựng, vận hành các công cụ tiện ích, phần mềm cài đặt trên nền tảng thiết bị số để thu thập thông tin giá cả nông sản cập nhật hàng ngày trên phạm vi toàn quốc; ứng dụng công nghệ thông minh trong các công đoạn điều tra cơ bản, thu thập số liệu định kỳ của ngành nông nghiệp, thông tin thị trường nước ngoài, cập nhật chính sách thương mại của các nước trên thế giới.

Về phân tích và dự báo tình hình thị trường, xây dựng và tích hợp các tính năng, thuật toán thống kê, các mô hình kinh tế lượng phục vụ tính toán, phân tích và dự báo; ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Bigdata) trong dự báo biến động về cung, cầu, giá cả vật tư, sản phẩm nông nghiệp; ứng dụng công nghệ viễn thám trong dự báo năng suất, sản lượng đối với ngành hàng trồng trọt, lâm nghiệp.

Phân loại, cung cấp thông tin phân tích, dự báo phù hợp tới các đối tượng sử dụng, đúng quy định của pháp luật; ứng dụng công nghệ số, đa nền tảng trong cung cấp, truyền tải thông tin, đảm bảo yêu cầu thống nhất, chính xác, kịp thời.

 

Kết luận của Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh tại Hội nghị trực tuyến sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới của Ban Chỉ đạo 389 quốc gia

Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 245/TB-VPCP ngày 11/8/2022 kết luận của Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh tại Hội nghị trực tuyến sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới của Ban Chỉ đạo 389 quốc gia.

Những tháng cuối năm 2022, dự báo tình hình thế giới và khu vực vẫn diễn biến phức tạp, khó lường; kinh tế thế giới phục hồi không đồng đều, nhất là ở một số nước là đối tác quan trọng của Việt Nam, cạnh tranh chiến lược giữa một số quốc gia tiếp tục diễn ra gay gắt. Đối với Việt Nam, nền kinh tế có khả năng phục hồi nhanh hơn, nhưng bên cạnh những thời cơ, thuận lợi thì tác động của dịch COVID-19, biến đổi khí hậu, thiên tai,… tiếp tục diễn biến phức tạp; các xu hướng mới về dịch chuyển đầu tư, thương mại, cùng với sự thay đổi nhanh chóng của các mô hình kinh doanh, phương thức sản xuất, tiêu dùng,… là thách thức lớn đối với công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, đòi hỏi công tác này phải đổi mới, quyết liệt, hiệu quả hơn trong hành động.

Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngay trong các lực lượng chức năng

Trước tình hình đó, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia yêu cầu Ban Chỉ đạo 389 các bộ, ngành, địa phương tiếp tục triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp về đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong tình hình mới và các Chương trình, Kế hoạch Ban Chỉ đạo đã ban hành; các giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới nêu tại báo cáo; nỗ lực phấn đấu đạt kết quả cao nhất góp phần hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra cho năm 2022; trong đó chú trọng những nội dung chủ yếu sau:

Thực hiện nghiêm các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng nhằm đấu tranh, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; xác định công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên của tất cả các cấp, các ngành, kiên quyết không có vùng cấm trong công tác này; đồng thời, cần phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chống buôn lậu, gian lận thương mại ngay trong các lực lượng chức năng (Công an, Hải quan, Quản lý thị trường, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Thuế,..), xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân vi phạm pháp luật.

Chủ động đánh giá thực trạng, tình hình kết quả, nhận diện, chỉ rõ những vấn đề nổi cộm, phức tạp về đối tượng, tuyến, địa bàn, lĩnh vực, mặt hàng trọng điểm, phương thức thủ đoạn mới về buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả nhằm kịp thời tham mưu đề xuất, xây dựng kế hoạch, tổ chức thanh tra, kiểm tra, điều tra xác minh, tập trung lực lượng, phương tiện, biện pháp đánh trúng, đánh đúng đối tượng, chủ mưu cầm đầu, đường dây ổ nhóm, tụ điểm phức tạp nhằm răn đe, phòng ngừa chung. Xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng thiên tai, dịch bệnh, đứt gãy chuỗi cung ứng, khan hiếm hàng cục bộ để đầu cơ, tăng giá bất hợp lý, trục lợi, lừa dối người tiêu dùng.

Chỉ đạo các lực lượng chức năng đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; tăng cường phối hợp kết nối, chia sẻ thông tin phù hợp với tình hình mới; công bố, công khai rộng rãi số điện thoại, e-mail, đường dây nóng của Ban Chỉ đạo 389 quốc gia và Ban Chỉ đạo 389 các cấp, của các lực lượng chức năng, đảm bảo thu thập, xử lý kịp thời tin báo từ quần chúng Nhân dân theo đúng Quy chế tiếp nhận, xử lý tin báo về buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả của Ban Chỉ đạo 389 quốc gia.

Giám sát chặt chẽ các lô hàng chuyển khẩu, chuyển cảng, tạm nhập, tái xuất

Làm tốt công tác nghiệp vụ, đảm bảo phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, nhất là các mặt hàng là dược phẩm, thực phẩm, dược liệu, xăng dầu, khoáng sản, đường cát, thuốc lá, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; chia sẻ thông tin, phối hợp lực lượng giám sát chặt chẽ các lô hàng chuyển khẩu, chuyển cảng, tạm nhập, tái xuất, nhất là các lô hàng tiêu dùng, hàng tạp hóa, hàng có nguy cơ thẩm lậu, quay vòng vào nội địa…

Đẩy mạnh, thực hiện có hiệu quả Kế hoạch chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong hoạt động thương mại điện tử, tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định pháp luật của các thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thương mại điện tử trên lãnh thổ Việt Nam, phát hiện, xử lý kịp thời các đối tượng lợi dụng hoạt động thương mại điện tử để thực hiện hành vi buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.

Các cơ quan thông tấn báo chí phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng phản ánh kịp thời, chính xác tình hình và kết quả công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; các biểu hiện tiêu cực, bất cập trong hoạt động của các cơ quan chức năng; đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật, vận động Nhân dân không tham gia, tiếp tay cho các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại và kinh doanh hàng giả; lên án các hành vi lợi dụng dịch bệnh để đầu cơ, tăng giá hàng hóa bất hợp lý…

Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo 389 quốc gia chủ trì, phối hợp với các lực lượng chức năng khẩn trương hoàn thiện dự thảo kế hoạch chống buôn lậu qua đường hàng không, đường bộ; rà soát chế độ báo cáo của Ban Chỉ đạo 389 quốc gia, đề xuất sửa đổi những nội dung còn bất cập, hình thức; chủ động nắm tình hình, theo dõi, đôn đốc các lực lượng chức năng trong công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả và việc thực hiện các ý kiến chỉ đạo của Trưởng ban.

Bên cạnh đó, tổng hợp ý kiến của các thành viên Ban Chỉ đạo 389 quốc gia và Ban Chỉ đạo 389 các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tại Hội nghị, báo cáo Trưởng ban xem xét, chỉ đạo xử lý; trong đó, cần tham mưu đề xuất việc sửa đổi, bổ sung, tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong công tác xử lý vi phạm hành chính, xử lý tang vật vi phạm, công tác giám định và định giá tài sản vi phạm…; đồng thời, đôn đốc các cơ quan liên quan khẩn trương thực hiện ý kiến chỉ đạo của Trưởng Ban Chỉ đạo 389 quốc gia về việc xây dựng văn bản quy định cách xác định sản phẩm, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam (Thông báo số 278/TB-VPCP ngày 25/10/2021 của Văn phòng Chính phủ)./.