Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn ký Quyết định số 2326/QĐ-TTg ngày 21/10/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Phát triển thị trường bán lẻ phù hợp với xu thế thương mại điện tử và kinh tế số.
Mục tiêu của Chiến lược là phát triển thị trường bán lẻ văn minh, hiện đại, bền vững, gắn với định hướng phát triển thương mại trong nước; tuân thủ đúng các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên; phù hợp với xu thế phát triển của thương mại điện tử và kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế chia sẻ; thực hiện tốt chức năng kết nối giữa sản xuất với tiêu dùng; gia tăng sức mua trong nước đồng thời kích cầu tiêu thụ sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế; góp phần nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của hàng hóa, tạo tiền đề để các doanh nghiệp bán lẻ tham gia sâu hơn vào thị trường bán lẻ thế giới.
Chiến lược phấn đấu đến năm 2030, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (chưa loại trừ yếu tố giá) tăng bình quân 11,0 - 11,5%/năm.
Thương mại điện tử phát triển nhanh với hành lang pháp lý hoàn thiện, áp dụng công nghệ, hạ tầng kỹ thuật hiện đại cùng với phương tiện hỗ trợ đầy đủ, bảo đảm tính an toàn và thuận tiện cho doanh nghiệp và người tiêu dùng trong quá trình tham gia giao dịch. Doanh số thương mại điện tử tăng bình quân 15 - 20%/năm, chiếm 15 - 20% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước vào năm 2030. Phấn đấu khoảng 40 - 45% số doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia các sàn thương mại điện tử.
Chính sách về phát triển thị trường bán lẻ từng bước được hoàn thiện; môi trường kinh doanh được cải thiện, hướng đến hình thành và phát triển thị trường cạnh tranh công bằng, minh bạch, thu hút được các nhà bán lẻ có năng lực và uy tín tham gia thị trường; khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới sáng tạo, phát triển theo các loại hình bán lẻ hiện đại trên thế giới...
Định hướng của Chiến lược là khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển thị trường bán lẻ theo những hình thức và quy mô thích hợp; hình thành lực lượng phân phối nòng cốt trong nước thông qua những ưu đãi bước đầu về cơ chế, chính sách tài chính và đất đai.
Hình thành các tập đoàn/doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực phân phối, chủ yếu là doanh nghiệp nội địa, bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó xác định các doanh nghiệp tư nhân là lực lượng nòng cốt tạo nên động lực quan trọng, đóng góp vào sự phát triển của thị trường; khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã thương mại, hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh tham gia thị trường bán lẻ.
Đa dạng hóa các loại hình kinh doanh bán lẻ, nhất là những loại hình có khả năng gắn kết và thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước phù hợp với quá trình hội nhập của Việt Nam. Thực hiện định hướng chuyển dịch hệ thống phân phối bán lẻ sang các loại hình phân phối hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh, bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các loại hình và phù hợp với từng phân khúc thị trường trước xu hướng gia tăng áp lực cạnh tranh với các nhà bán lẻ nước ngoài.
Phát triển kết hợp các loại hình kinh doanh bán lẻ hiện đại, loại hình đa kênh, thương mại điện tử với các loại hình bán lẻ truyền thống; loại hình bán lẻ hàng tồn kho kết hợp với khuyến mại kích cầu tiêu dùng; đầu tư phát triển các khu thương mại - dịch vụ tổng hợp với chợ truyền thống là hạt nhân kết hợp với đường phố thương mại, vừa mang tính hiện đại vừa giữ được nét văn hóa kinh doanh truyền thống.
Phát triển các loại hình bán lẻ hiện đại, mở rộng và tăng cường quản lý các chuỗi cửa hàng bán lẻ, loại hình nhượng quyền của các thương hiệu Việt Nam và quốc tế, loại hình bán lẻ tập trung lớn do các tập đoàn, doanh nghiệp phân phối trong nước đầu tư.
Hình thành các chuỗi liên kết để kết nối sản xuất với phân phối hàng hóa, tập trung trước hết vào các chuỗi cung ứng hàng nông sản thực phẩm thiết yếu nhằm đảm bảo ổn định cung - cầu, quản lý có hiệu quả chất lượng và an toàn thực phẩm lưu thông trên thị trường; tổ chức và vận hành hiệu quả hệ thống phân phối các nhóm hàng hóa thiết yếu trên thị trường; xây dựng và hình thành các chuỗi liên kết sản xuất và phân phối theo hướng bền vững, trong đó đẩy mạnh liên kết trong chuỗi cung ứng gắn với thực hiện tốt các quy định về chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc; phát triển chuỗi cung ứng các sản phẩm thân thiện với môi trường, được dán nhãn sinh thái...
Phát triển các chuỗi liên kết theo phương thức nhượng quyền kinh doanh và các chuỗi liên kết tự nguyện của các siêu thị nhỏ, các cửa hàng chuyên doanh để tăng cường năng lực cạnh tranh.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã thương mại, hộ kinh doanh cá thể và cá nhân kinh doanh, khuyến khích hình thành các chuỗi liên kết đơn ngành hoặc đa ngành, thiết lập các chuỗi liên kết dọc (liên kết hình thành chuỗi cung ứng của một hoặc một nhóm sản phẩm, hàng hóa) và liên kết ngang (giữa những doanh nghiệp cùng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh), tăng cường liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất, nhà phân phối và nhà cung ứng dịch vụ hỗ trợ để tạo nguồn cung chất lượng cho thị trường bán lẻ.
Chiến lược tập trung phát triển mạnh các loại hình kinh doanh thương mại hiện đại như thương mại điện tử, sàn giao dịch điện tử dựa trên nền tảng số hóa; phát triển đa dạng các phương thức bán lẻ, trong đó đặc biệt chú trọng phương thức bán lẻ đa kênh (Omnichannel), bán lẻ qua điện thoại di động, truyền hình, qua các ứng dụng mạng xã hội dựa trên môi trường mạng internet... đáp ứng yêu cầu và xu hướng mua sắm của người tiêu dùng trong tương lai.
Hoàn thiện khung pháp lý, có cơ chế thí điểm rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nghiên cứu và vận hành các sàn giao dịch điện tử dựa trên ứng dụng công nghệ tiên tiến, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các loại hình kinh doanh bán lẻ trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế về giao dịch thương mại điện tử. Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ công phục vụ cho thương mại điện tử.
Phát triển thị trường thương mại điện tử lành mạnh, có tính cạnh tranh và phát triển bền vững. Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa thông qua ứng dụng thương mại điện tử; khuyến khích ứng dụng và hỗ trợ quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp; đẩy mạnh giao dịch thương mại điện tử khu vực biên giới và xuyên biên giới...
Chính phủ ban hành Nghị định số 277/2025/NĐ-CP ngày 20/10/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 218/2025/QH15 ngày 26/6/2025 của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi.
Quy định mới về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi - Ảnh: VGP
Nghị định gồm 5 chương, 29 điều quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 218/2025/QH15 ngày 26/6/2025 của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi, bao gồm: đầu tư phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi; chính sách phát triển đội ngũ và hỗ trợ trẻ em; lộ trình đạt chuẩn, tiêu chuẩn công nhận, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi và quy trình, thủ tục kiểm tra công nhận phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi.
Theo Nghị định này, lộ trình đến 2028, có từ 50% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi. Đến 2030, 100% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi.
Nghị định quy định các chính sách hỗ trợ trẻ em từ 3 đến 5 tuổi và đầu tư phát triển cơ sở vật chất, đội ngũ trường, lớp. Cụ thể như sau:
1. Hỗ trợ ăn trưa cho trẻ em
Nghị định quy định đối tượng được hưởng hỗ trợ này gồm:
- Trẻ em độ tuổi từ 3 đến 5 tuổi (không bao gồm trẻ em dân tộc thiểu số rất ít người theo quy định tại Nghị định số 57/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ em từ 3 đến 5 tuổi, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người) thường trú tại xã, thôn đặc biệt khó khăn đang học tại cơ sở giáo dục mầm non công lập, các cơ sở giáo dục mầm non thuộc lực lượng vũ trang tại xã khu vực III, khu vực II, khu vực I, xã có thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo theo quy định của cơ quan có thẩm quyền;
- Trẻ em từ 3 đến 5 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng được quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội;
- Trẻ em từ 3 đến 5 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo, cận nghèo đa chiều theo quy định của Chính phủ;
- Trẻ em từ 3 đến 5 tuổi là con liệt sĩ, con Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, con thương binh, con người hưởng chính sách như thương binh, con bệnh binh, con đối tượng chính sách khác theo quy định tại Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (nếu có);
- Trẻ em từ 3 đến 5 tuổi khuyết tật học hòa nhập.
Mỗi trẻ em thuộc đối tượng nêu trên được hỗ trợ mỗi tháng là 360.000 đồng và được hưởng không quá 9 tháng/năm học.
2. Hỗ trợ chi phí học tập
Nghị định quy định đối tượng được hưởng hỗ trợ chi phí học tập bao gồm:
- Trẻ em từ 3 đến 5 tuổi tại khoản 1 nêu trên;
- Trẻ em từ 3 đến 5 tuổi học tại các cơ sở giáo dục mầm non thuộc loại hình dân lập, tư thục đã được cơ quan có thẩm quyền cấp phép thành lập và hoạt động theo đúng quy định có cha hoặc mẹ hoặc người chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em hợp pháp là công nhân, người lao động đang làm việc tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất được doanh nghiệp ký hợp đồng lao động theo quy định.
Mỗi trẻ em thuộc đối tượng nêu trên được hỗ trợ chi phí học tập mỗi tháng là 150.000 đồng và được hưởng không quá 9 tháng/năm học.
Nghị định quy định tăng cường nguồn lực từ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đầu tư cơ sở vật chất. Khuyến khích thu hút các nguồn lực của xã hội đầu tư cơ sở vật chất phát triển giáo dục mầm non. Đầu tư phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non bảo đảm đủ trường lớp, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi. Nâng chuẩn cơ sở giáo dục mầm non theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi.
Ưu tiên dành quỹ đất sạch, cho phép chuyển đổi linh hoạt mục đích sử dụng đất sang đất xây dựng cơ sở giáo dục mầm non; tập trung giải phóng mặt bằng, giao đất sạch cho các dự án giáo dục mầm non. Không thu tiền sử dụng đất, giảm tiền thuê đất, tiền thuế đất đối với các cơ sở giáo dục mầm non. Không áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp đối với cơ sở giáo dục mầm non công lập, cơ sở giáo dục mầm non tư thục hoạt động không vì lợi nhuận. Ưu tiên dành trụ sở cơ quan nhà nước dôi dư sau sắp xếp cho các cơ sở giáo dục mầm non; cho phép áp dụng hình thức cho thuê công trình thuộc sở hữu nhà nước đối với cơ sở giáo dục mầm non tư thục.
Ưu tiên đầu tư kinh phí của trung ương và địa phương từ các chương trình, dự án bảo đảm đến năm 2030 có 100% các cơ sở giáo dục mầm non công lập, cơ sở giáo dục mầm non thuộc lực lượng vũ trang ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, xã thuộc vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, hải đảo, bãi ngang, ven biển, khu đông dân cư, địa bàn có khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất đủ trường lớp, bảo đảm 01 phòng học/lớp mẫu giáo, 100% phòng học kiên cố, có đủ các phòng chức năng, thư viện trường mầm non, đủ đồ chơi ngoài trời, đồ chơi trong lớp, thiết bị dạy học, đủ bếp ăn, nhà vệ sinh và công trình nước sạch theo quy định.
Nghị định yêu cầu bảo đảm bố trí đủ số lượng giáo viên mầm non mức tối đa theo định mức quy định; bảo đảm chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi trong cơ sở giáo dục mầm non.
Giáo viên mầm non được tuyển dụng mới từ năm học 2025 - 2026 theo quy định của pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi, cam kết công tác tại cơ sở giáo dục mầm non công lập được tuyển dụng ít nhất 05 năm, được hưởng chính sách hỗ trợ tối thiểu 01 năm tiền lương cơ sở (hoặc mức tương đương khi có thay đổi chính sách lương).
Đối tượng Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, giáo viên và nhân viên tại cơ sở giáo dục mầm non công lập tham gia thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi được hưởng kinh phí hỗ trợ 960.000 đồng/tháng (kinh phí hỗ trợ không dùng để tính đóng, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội).
Chính phủ ban hành Nghị định số 275/2025/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 85/2025/NĐ-CP ngày 8/4/2025 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư công.
Sửa đổi, bổ sung một số quy định chi tiết Luật Đầu tư công.
Trong đó, Nghị định số 275/2025/NĐ-CP bổ sung trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án nhà máy điện hạt nhân; hạn mức thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn…
Nghị định bổ sung Điều 9a về trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án nhà máy điện hạt nhân thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ như sau:
1. Thủ tướng Chính phủ giao bộ, cơ quan trung ương, địa phương là cơ quan chủ quản thực hiện dự án. Cơ quan chủ quản thực hiện dự án có trách nhiệm:
a) Giao đơn vị trực thuộc tổ chức lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án;
b) Thành lập Hội đồng để thẩm định hoặc giao đơn vị trực thuộc tổ chức thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi;
c) Hoàn thiện báo cáo nghiên cứu tiền khả thi trình Thủ tướng Chính phủ.
2. Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội đồng thẩm định nhà nước do Bộ trưởng Bộ Công Thương làm Chủ tịch Hội đồng hoặc giao Bộ Công Thương là cơ quan chủ trì thẩm định để thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án. Việc thành lập Hội đồng thẩm định nhà nước được phép thực hiện đồng thời với quá trình lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án.
Hội đồng thẩm định nhà nước hoặc cơ quan chủ trì thẩm định được mời tổ chức, cá nhân có chuyên môn, kinh nghiệm tham gia thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc yêu cầu chủ đầu tư lựa chọn tổ chức, cá nhân có chuyên môn, kinh nghiệm tham gia thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi.
3. Bộ Tài chính chủ trì đánh giá nguồn vốn, khả năng cân đối vốn, phương án bố trí vốn gửi Hội đồng thẩm định nhà nước hoặc cơ quan chủ trì thẩm định.
4. Hội đồng thẩm định hoặc cơ quan chủ trì thẩm định quy định tại điểm 2 gửi ý kiến thẩm định để cơ quan chủ trì lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoàn chỉnh báo cáo, trình Thủ tướng Chính phủ.
5. Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư, bao gồm mục tiêu, quy mô, tổng mức đầu tư, địa điểm, thời gian thực hiện, cơ chế, giải pháp và chính sách thực hiện.
Đồng thời, Nghị định cũng bổ sung Điều 15a quy định về hạn mức để thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn như sau:
1. Sau khi cấp có thẩm quyền thông báo tổng mức vốn giai đoạn sau theo quy định tại khoản 4 Điều 59 Luật Đầu tư công:
a) Trường hợp tổng mức vốn giai đoạn sau được thông báo lớn hơn hạn mức được quy định tại khoản 1 Điều 36a Luật Đầu tư công, bộ, cơ quan trung ương và địa phương thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn bảo đảm tổng giá trị tổng mức đầu tư dự kiến thực hiện trong giai đoạn sau của các chương trình, nhiệm vụ, dự án không vượt quá tổng mức vốn được thông báo.
b) Các chương trình, dự án đã được thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn theo hạn mức được quy định tại khoản 1 Điều 36a Luật Đầu tư công và đã được phê duyệt chủ trương đầu tư nhưng chưa được cân đối vốn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn thì được tiếp tục xem xét khi bảo đảm cân đối được nguồn vốn.
2. Đối với chương trình, dự án dự kiến thực hiện trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn hiện hành, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn trong phạm vi tổng số vốn của kế hoạch đầu tư công trung hạn hiện hành được cấp có thẩm quyền giao và nguồn vốn đầu tư công được cấp có thẩm quyền thông báo.
3. Đối với vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài, căn cứ thư quan tâm hoặc văn bản cam kết của nhà tài trợ nước ngoài về việc cung cấp vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài cho các chương trình, dự án của bộ, cơ quan trung ương và địa phương, Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận việc sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài cho chương trình, dự án, làm cơ sở để bộ, cơ quan trung ương và địa phương lập, thẩm định chủ trương đầu tư, đánh giá nguồn vốn và khả năng cân đối vốn.
Nghị định sửa đổi, bổ sung Điều 43 về trình tự lập, phê duyệt, giao kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách nhà nước, trong đó quy định vai trò của Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương hoàn thiện phương án phân bổ vốn đầu tư công cho lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Theo quy định mới tại điểm a khoản 7 Điều 43 thì đối với dự kiến kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn sau nguồn ngân sách trung ương bố trí cho chương trình, nhiệm vụ, dự án thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, bộ, cơ quan trung ương có trách nhiệm lấy ý kiến Bộ Khoa học và Công nghệ để hoàn thiện trước khi gửi Bộ Tài chính. Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm cho ý kiến trong 10 ngày làm việc kể từ khi nhận được đề xuất của bộ, cơ quan trung ương.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng sửa đổi, bổ sung Điều 50 quy định về điều chỉnh kế hoạch đầu tư công.
Theo quy định mới, Chính phủ quyết định điều chỉnh kế hoạch đầu tư công hằng năm vốn ngân sách trung ương nhưng không vượt tổng chi ngân sách trung ương của cả nước đã được Quốc hội quyết định trong các trường hợp sau:
a) Điều chỉnh tổng thể kế hoạch đầu tư công hàng năm vốn ngân sách trung ương của cả nước;
b) Điều chỉnh kế hoạch đầu tư công hằng năm vốn ngân sách trung ương giữa các bộ, cơ quan trung ương và địa phương trên cơ sở đề xuất của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương trước ngày 15 tháng 12 năm kế hoạch;
c) Chủ động cắt giảm, điều chỉnh kế hoạch đầu tư công hằng năm vốn ngân sách trung ương của bộ, cơ quan trung ương và địa phương để bổ sung vốn cho bộ, cơ quan trung ương và địa phương khác trước ngày 15 tháng 12 năm kế hoạch;
d) Điều chỉnh kế hoạch đầu tư công hằng năm vốn ngân sách trung ương của bộ, cơ quan trung ương, địa phương trong phạm vi tổng chi ngân sách trung ương của bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã được cấp có thẩm quyền quyết định.
Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương trong trường hợp sau:
a) Điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương giữa các bộ, cơ quan trung ương và địa phương trên cơ sở đề xuất của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương trong trường hợp không vượt tổng mức vốn trung hạn đã được Quốc hội quyết định, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
b) Chủ động cắt giảm, điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương của bộ, cơ quan trung ương và địa phương để bổ sung vốn cho bộ, cơ quan trung ương và địa phương khác trong trường hợp không vượt tổng mức vốn trung hạn đã được Quốc hội quyết định, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
c) Điều chỉnh danh mục dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách trung ương của bộ, cơ quan trung ương và địa phương.
Bộ Tài chính có trách nhiệm báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm vốn ngân sách trung ương quy định ở trên.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 278/2025/NĐ-CP ngày 22/10/2025 quy định về kết nối, chia sẻ dữ liệu bắt buộc giữa các cơ quan thuộc hệ thống chính trị.
Chậm nhất đến ngày 31/12/2026, việc kết nối, chia sẻ dữ liệu bắt buộc giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị được thực hiện thống nhất thông qua Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu.
Nghị định gồm 5 chương, 25 điều quy định về hoạt động kết nối chia sẻ dữ liệu bắt buộc giữa các cơ quan thuộc hệ thống chính trị từ trung ương tới địa phương và bảo đảm khả năng sẵn sàng kết nối, chia sẻ dữ liệu; khung kiến trúc dữ liệu quốc gia, khung quản trị, quản lý dữ liệu quốc gia, từ điển dữ liệu dùng chung.
Nghị định này áp dụng đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan trung ương của tổ chức chính trị, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, cơ quan trung ương thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban nhân dân các cấp (sau đây gọi là bộ, cơ quan trung ương, địa phương), cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động trực tiếp hoặc có liên quan đến kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu và Khung kiến trúc dữ liệu quốc gia, Khung quản trị, quản lý dữ liệu quốc gia, Từ điển dữ liệu dùng chung.
Theo Nghị định, dữ liệu chủ quốc gia là dữ liệu chủ được kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng chung trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Việc tích hợp, đồng bộ và sử dụng dữ liệu chủ quốc gia là bắt buộc đối với các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị khi xây dựng, cập nhật hoặc vận hành cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin.
Nguồn của dữ liệu chủ quốc gia được thiết lập hoặc khởi tạo trên nguyên tắc nguồn dữ liệu tin cậy duy nhất. Một dữ liệu chỉ có một nguồn tin cậy duy nhất.
Dữ liệu chủ được thiết lập hoặc khởi tạo từ bộ mã khóa định danh. Bộ trưởng Bộ Công an công bố danh mục dữ liệu chủ quốc gia trên hệ thống Từ điển dữ liệu dùng chung trên cơ sở thống nhất với các cơ quan thuộc hệ thống chính trị.
Bộ Công an cấp mã khóa định danh dữ liệu chủ và xây dựng, quản lý, vận hành và cập nhật danh mục dữ liệu chủ quốc gia, bảo đảm tính chính xác, nhất quán và liên thông kỹ thuật.
Về dữ liệu chủ chuyên ngành (là dữ liệu chủ được kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng trong phạm vi nội bộ của cơ quan Đảng, Nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội), Nghị định quy định các bộ, cơ quan trung ương có trách nhiệm xác định, công bố, cập nhật bộ dữ liệu chủ chuyên ngành của mình và tích hợp vào Hệ thống Từ điển dữ liệu dùng chung.
Dữ liệu chủ chuyên ngành phải bảo đảm tuân thủ nguyên tắc quy định tại khoản 4 Điều 5 Nghị định này và có khả năng mở rộng, tích hợp, liên thông, truy xuất với dữ liệu chủ quốc gia.
Bộ Công an có trách nhiệm hướng dẫn kỹ thuật, kiểm tra, giám sát việc xây dựng, cập nhật và sử dụng dữ liệu chủ chuyên ngành nhằm bảo đảm tính thống nhất và khả năng tích hợp, truy xuất dữ liệu trên toàn hệ thống.
Nghị định quy định việc kết nối, chia sẻ dữ liệu bắt buộc giữa các cơ sở dữ liệu được thực hiện thống nhất, đồng bộ, tuân thủ theo Khung kiến trúc dữ liệu quốc gia, Khung quản trị, quản lý dữ liệu quốc gia và Từ điển dữ liệu dùng chung.
Phương thức kết nối, chia sẻ dữ liệu bắt buộc gồm:
a) Hệ thống thông tin của cơ quan sử dụng, khai thác dữ liệu kết nối với hệ thống thông tin của cơ quan chia sẻ dữ liệu để truy vấn dữ liệu thông qua Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu. Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu thực hiện xác thực và phân quyền trao đổi dữ liệu giữa 2 bên. (Kết nối chia sẻ dữ liệu theo yêu cầu);
b) Hệ thống thông tin của cơ quan chia sẻ dữ liệu đồng bộ một phần hoặc toàn bộ dữ liệu của mình sang hệ thống thông tin của cơ quan sử dụng, khai thác dữ liệu thông qua Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu;
c) Hệ thống thông tin của cơ quan chia sẻ dữ liệu đồng bộ dữ liệu lên Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia thông qua Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu để thực hiện điều phối cho cơ quan sử dụng, khai thác dữ liệu;
d) Chia sẻ dữ liệu được đóng gói và lưu giữ trên các phương tiện lưu trữ thông tin.
Máy chủ bảo mật điểm kết nối (Agent Node) là thành phần của Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu có chức năng bảo mật điểm kết nối phục vụ trao đổi, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin, gồm:
a) Bộ, cơ quan trung ương, địa phương thực hiện kết nối trực tiếp với Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu thông qua Agent Node đặt tại bộ, cơ quan trung ương, địa phương;
b) Các nền tảng chia sẻ dữ liệu cấp bộ, cơ quan trung ương, địa phương kết nối trực tiếp với Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu thông qua Agent Node đặt tại bộ, cơ quan trung ương, địa phương;
c) Các hình thức kết nối, chia sẻ dữ liệu, các cơ sở dữ liệu khác của bộ ngành địa phương kết nối trực tiếp với Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu thông qua Agent Node đặt tại bộ, ngành, địa phương;
d) Agent Node thực hiện kết nối với Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu đặt tại bộ, ngành, địa phương do Trung tâm Dữ liệu quốc gia thiết lập, cấu hình, cài đặt.
Nghị định quy định danh mục cơ sở dữ liệu bắt buộc kết nối, chia sẻ gồm:
1. Các cơ sở dữ liệu quốc gia bắt buộc phải kết nối, đồng bộ, chia sẻ, khai thác dữ liệu trong hệ thống chính trị tuân thủ theo quy định pháp luật về dữ liệu, bảo vệ dữ liệu cá nhân và pháp luật khác có liên quan.
2. Các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành trọng điểm ưu tiên triển khai tại Phụ lục I bắt buộc kết nối, đồng bộ, chia sẻ phục vụ việc khai thác, sử dụng dữ liệu dùng chung.
3. Cơ sở dữ liệu thuộc các cơ quan trong hệ thống chính trị bắt buộc kết nối, chia sẻ theo quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định này.
4. Bộ Công an thực hiện việc cập nhật, điều chỉnh, bổ sung kết quả kết nối, chia sẻ cơ sở dữ liệu vào hệ thống Từ điển dữ liệu dùng chung.
Dữ liệu bắt buộc kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng bao gồm:
1. Tất cả dữ liệu chủ, dữ liệu dùng chung của các cơ sở dữ liệu thuộc các bộ, cơ quan trung ương, địa phương và các dữ liệu khác quy định tại khoản 1 Điều 34 Luật Dữ liệu phải kết nối, chia sẻ, đồng bộ với Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia để Bộ Công an thực hiện điều phối cho các bộ, cơ quan trung ương, địa phương thông qua Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu.
2. Dữ liệu phục vụ giải quyết thủ tục hành chính, dịch vụ công, phục vụ hoạt động chỉ đạo, điều hành cho các bộ, cơ quan trung ương, địa phương phải kết nối, chia sẻ, đồng bộ với Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia để Bộ Công an thực hiện điều phối cho các bộ, cơ quan trung ương, địa phương thông qua Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu.
3. Dữ liệu thuộc phạm vi bí mật nhà nước được kết nối, chia sẻ theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và pháp luật về cơ yếu.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký (22/10/2025); thay thế Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước.
Các bộ, cơ quan trung ương, địa phương phải thực hiện chuẩn hóa dữ liệu, ban hành danh mục dữ liệu chủ chuyên ngành, danh mục dữ liệu mở, danh mục dữ liệu dùng chung theo Khung kiến trúc dữ liệu quốc gia, Khung quản trị, quản lý dữ liệu quốc gia, Từ điển dữ liệu dùng chung đối với các cơ sở dữ liệu quy định tại Phụ lục I Nghị định này trước 30/12/2025.
Đối với các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin đã được chuẩn hóa theo quy định tại Nghị định này thì phải thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu thông qua Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu. Đối với các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin còn lại hoàn thành việc chuẩn hóa theo quy định tại Nghị định này trước ngày 31/12/2026.
Chậm nhất đến ngày 31/12/2026, việc kết nối, chia sẻ dữ liệu bắt buộc giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị được thực hiện thống nhất thông qua Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu.
Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo số 568/TB-VPCP ngày 22/10/2025 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn tại cuộc họp Ban Chỉ đạo Hội chợ Mùa Thu 2025.
Hội chợ mùa Thu 2025 diễn ra từ ngày 26/10/2025 đến ngày 4/11/2025.
Thông báo nêu rõ: Thời gian từ nay đến ngày khai mạc Hội chợ còn rất ngắn, Ban Chỉ đạo yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, đơn vị liên quan tập trung cao độ, tuyệt đối không để chậm trễ, khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Cụ thể, Bộ Công Thương rà soát, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp còn chậm tiến độ, khẩn trương triển khai thực hiện công tác chuẩn bị, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ theo đúng kế hoạch đề ra; chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, đơn vị liên quan chuẩn bị bài phát biểu của lãnh đạo, trong đó có nội dung, lời phát động kêu gọi ủng hộ, chia sẻ khó khăn với người dân, địa phương bị ảnh hưởng bão lũ tại Lễ khai mạc, cũng như tổ chức hoạt động ủng hộ trong suốt thời gian diễn ra Hội chợ theo đúng quy định của pháp luật về vận động, tiếp nhận nguồn đóng góp tự nguyện.
Tiếp tục cung cấp tài liệu, thông tin thường xuyên cho các cơ quan thông tấn báo chí để truyền thông, quảng bá hình ảnh và các hoạt động trước, trong và sau Hội chợ, bảo đảm truyền thông đa dạng, phong phú.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan hoàn thiện kịch bản chi tiết tổ chức Lễ Khai mạc và Lễ Bế mạc, bảo đảm theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình phải được tổ chức trang trọng, ấn tượng, chuyên nghiệp, có chất lượng nghệ thuật cao, xứng tầm quy mô Hội chợ lớn nhất từ trước đến nay.
Bộ Tài chính khẩn trương trình cấp có thẩm quyền xem xét, hỗ trợ kinh phí cho các bộ, ngành, địa phương, bảo đảm đúng quy định, kịp thời, hiệu quả; đồng thời, tiếp tục hỗ trợ, hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương và đơn vị liên quan trong quá trình triển khai thực hiện.
Bộ Ngoại giao tiếp tục phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan chủ động mời các đoàn quốc tế, các nguyên thủ, người đứng đầu các tổ chức quốc tế trong thời gian tham dự Lễ mở ký Công ước Hà Nội, đến tham quan tại Hội chợ.
Bộ Khoa học và Công nghệ khẩn trương đôn đốc các doanh nghiệp khoa học công nghệ tích cực tham gia tại khu gian hàng về sản phẩm khoa học công nghệ, bảo đảm đầy đủ các sản phẩm tiêu biểu được giới thiệu, trao đổi, xúc tiến thương mại tại Hội chợ.
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội phối hợp với Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan chỉ đạo các sở, ban, ngành, đơn vị chức năng, lực lượng quản lý thị trường tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm chất lượng hàng hóa, an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự… trong thời gian diễn ra Hội chợ.
Bộ Tư lệnh cảnh vệ phối hợp chặt chẽ với Công an thành phố Hà Nội bảo đảm an ninh, an toàn tuyệt đối các sự kiện diễn ra tại Hội chợ, nhất là Lễ Khai mạc, Lễ Bế mạc.
Tập đoàn Vingroup và Công ty Cổ phần Triển lãm Việt Nam (VEC) tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Ban Tổ chức để có biện pháp hỗ trợ kịp thời, tích cực xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thời gian chuẩn bị và trong suốt thời gian diễn ra Hội chợ.
Các cơ quan thông tấn báo chí tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giới thiệu hoạt động của Hội chợ trên các phương tiện thông tin đại chúng, bằng các hình thức đa dạng, phong phú, sáng tạo trên cơ sở bộ nhận diện, logo đã được thống nhất để lan tỏa rộng rãi thông tin, hình ảnh Hội chợ đến với nhân dân./.