• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 26/8/2025

(Chinhphu.vn) - Văn phòng Chính phủ vừa có Thông cáo báo chí chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 26/8/2025.

26/08/2025 18:28

Nghị định sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng 

 Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

Nội dung đáng chú ý của Nghị định 232/2025/NĐ-CP là đã bãi bỏ khoản 3 Điều 4 của Nghị định 24/2012/NĐ-CP xóa bỏ cơ chế Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 26/8/2025- Ảnh 1.

Mua bán vàng từ 20 triệu đồng/ngày trở lên phải thanh toán qua tài khoản ngân hàng.

Mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với hoạt động sản xuất vàng miếng

Về phạm vi điều chỉnh, Nghị định số 232/2025/NĐ-CP đã bổ sung "hoạt động sản xuất vàng miếng" tại khoản 1 Điều 1 của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP. Cụ thể:

"1. Nghị định này quy định về hoạt động kinh doanh vàng, bao gồm: Hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động sản xuất vàng miếng; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng và các hoạt động kinh doanh vàng khác, bao gồm cả hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản và hoạt động phái sinh về vàng."

Bên cạnh đó, Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 3 của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về khái niệm vàng miếng: "2. Vàng miếng là sản phẩm vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng, có ký mã hiệu của doanh nghiệp và ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cho phép sản xuất; vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất trong từng thời kỳ".

Theo quy định mới, cụm từ "tổ chức tín dụng" được sửa thành "ngân hàng thương mại" để phù hợp với phạm vi hoạt động của ngân hàng thương mại tại Luật Các tổ chức tín dụng (khoản 17, 21 và khoản 38 Điều 4 và khoản 1 Điều 114) và định hướng chỉ cho phép các ngân hàng thương mại (không bao gồm các tổ chức tín dụng khác) được thực hiện hoạt động sản xuất vàng miếng, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng.

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung khoản 6 Điều 4, theo đó hoạt động sản xuất vàng miếng là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải được NHNN cấp Giấy phép. Việc sửa đổi, bổ sung phù hợp với mục tiêu chuyển từ cơ chế độc quyền sản xuất vàng miếng sang cơ chế cấp phép hoạt động sản xuất vàng miếng.

Mua bán vàng từ 20 triệu đồng/ngày trở lên phải thanh toán qua tài khoản ngân hàng

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP cũng bổ sung khoản 10 Điều 4 của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về thanh toán mua, bán vàng: "Việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài."

Việc bổ sung quy định nêu trên để đảm bảo yêu cầu về xác thực thông tin khách hàng nhưng không tạo thêm nghĩa vụ của khách hàng do việc xác thực đã được thực hiện khi khách hàng mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Quy định này cũng nhằm tăng tính công khai, minh bạch trong giao dịch mua, bán vàng.

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP cũng bổ sung khoản 5a Điều 6 về trách nhiệm của doanh nghiệp hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ. Theo đó, khi bán vàng nguyên liệu mua từ doanh nghiệp, ngân hàng thương mại quy định tại Điều 11a Nghị định này phải lập và sử dụng hóa đơn điện tử theo quy định của pháp luật; lưu trữ đầy đủ, chính xác dữ liệu giao dịch bán vàng nguyên liệu; thực hiện kết nối cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Việc bổ sung trách nhiệm của doanh nghiệp hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ khi bán vàng nguyên liệu mua từ doanh nghiệp, ngân hàng thương mại phải lập và sử dụng hóa đơn điện tử; lưu trữ dữ liệu để đảm bảo minh bạch, có kiểm soát trong các giao dịch mua, bán vàng nguyên liệu.

Điều kiện cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng

Đáng chú ý, Nghị định đã bổ sung Điều 11a sau Điều 11 Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về điều kiện cấp Giấp phép sản xuất vàng miếng. Cụ thể như sau:

"Điều 11a. Điều kiện cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng

1. Doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:

a) Có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng;

b) Có vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng trở lên;

c) Không bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng nhưng đã thực hiện xong các biện pháp khắc phục hậu quả theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, các kiến nghị có thời hạn thực hiện tại Kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu có);

d) Có quy định nội bộ quy định về sản xuất vàng miếng bao gồm những nội dung cơ bản như quy trình nhập nguyên liệu; quy trình sản xuất vàng miếng; quy trình giám sát sản xuất; quy trình kiểm soát chất lượng sản phẩm.

2. Ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:

a) Có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng;

b) Có vốn điều lệ từ 50.000 tỷ đồng trở lên;

c) Không bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng nhưng đã thực hiện xong các biện pháp khắc phục hậu quả theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, các kiến nghị có thời hạn thực hiện tại Kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu có);

d) Có quy định nội bộ quy định về sản xuất vàng miếng bao gồm những nội dung cơ bản như quy trình nhập nguyên liệu; quy trình sản xuất vàng miếng; quy trình giám sát sản xuất; quy trình kiểm soát chất lượng sản phẩm.

3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng."

Quy định các điều kiện nêu trên để đảm bảo doanh nghiệp, ngân hàng thương mại sản xuất vàng miếng là các tổ chức có kinh nghiệm, có đủ năng lực tài chính, tuân thủ pháp luật về hoạt động kinh doanh vàng để thực hiện sản xuất vàng miếng. Đây cũng là cơ sở cần thiết để doanh nghiệp, ngân hàng thương mại có thể bắt tay ngay vào hoạt động sản xuất vàng miếng khi được cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng, đáp ứng yêu cầu cấp bách về quản lý hiệu quả thị trường vàng trong bối cảnh hiện nay, đảm bảo nguyên tắc Nhà nước vẫn quản lý hoạt động sản xuất vàng miếng.

Trách nhiệm của các tổ chức được phép sản xuất, kinh doanh mua, bán vàng miếng

Ngoài ra, đối với phần trách nhiệm của các tổ chức được phép sản xuất, kinh doanh mua, bán vàng miếng tại Điều 12 của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP, Nghị định 232/2025/NĐ-CP cũng bổ sung một số nội dung mới theo hướng mở rộng, tăng trách nhiệm đối với doanh nghiệp, ngân hàng thương mại sản xuất vàng miếng (khoản 3) và trách nhiệm đối với doanh nghiệp, tổ chức tín dụng kinh doanh mua bán vàng miếng (khoản 4). Cụ thể:

"Điều 12. Trách nhiệm của các tổ chức được phép sản xuất, kinh doanh mua, bán vàng miếng

1. Chỉ được phép sản xuất, kinh doanh mua, bán loại vàng miếng quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định này.

2. Chấp hành các quy định của pháp luật về chế độ kế toán, lập và sử dụng hóa đơn chứng từ.

3. Ngoài các quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều này, doanh nghiệp, ngân hàng thương mại sản xuất vàng miếng có trách nhiệm:

a) Công bố tiêu chuẩn áp dụng, khối lượng, hàm lượng của sản phẩm theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tiêu chuẩn khối lượng, hàm lượng sản phẩm đã sản xuất đúng với tiêu chuẩn khối lượng, hàm lượng đã công bố;

b) Chịu hoàn toàn trách nhiệm về sản phẩm vàng miếng do mình sản xuất, bảo hành sản phẩm vàng miếng cho khách hàng theo quy định pháp luật; lưu trữ đầy đủ, chính xác dữ liệu vàng miếng được sản xuất;

c) Xây dựng hệ thống thông tin xử lý, lưu trữ dữ liệu vàng miếng được sản xuất có những nội dung cơ bản bao gồm thông tin nguyên liệu đầu vào, thời gian sản xuất, sản phẩm đầu ra; thực hiện kết nối cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

4. Ngoài các quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều này, doanh nghiệp, tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng có trách nhiệm:

a) Niêm yết công khai giá mua, giá bán vàng miếng tại địa điểm giao dịch hoặc trên trang thông tin điện tử và kết nối cung cấp thông tin về mức giá niêm yết cho Ngân hàng Nhà nước;

b) Không được phép thực hiện kinh doanh vàng miếng thông qua các đại lý ủy nhiệm;

c) Có biện pháp và trang thiết bị bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh;

d) Xây dựng quy định nội bộ về mua, bán vàng miếng, trong đó quy định rõ quy trình giao dịch mua, bán vàng miếng với khách hàng; công bố công khai thông tin về quyền và nghĩa vụ của khách hàng trên trang thông tin điện tử của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp hoặc niêm yết công khai tại trụ sở giao dịch; lưu trữ đầy đủ, chính xác dữ liệu giao dịch mua bán vàng miếng;

đ) Xây dựng hệ thống thông tin xử lý, lưu trữ dữ liệu giao dịch mua bán vàng miếng có những nội dung cơ bản bao gồm thông tin căn cước đối với cá nhân, mã số thuế doanh nghiệp đối với doanh nghiệp, khối lượng và giá trị giao dịch của bên mua, bán; thực hiện kết nối cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

5. Tuân thủ các quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan."

Chỉ thị về việc phát huy kết quả Tổng kiểm kê tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, tài sản kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư, quản lý và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công 

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 26/8/2025 về việc phát huy kết quả Tổng kiểm kê tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, tài sản kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư, quản lý và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công.

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 26/8/2025- Ảnh 2.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công.

Chỉ thị nêu: Thực hiện Nghị quyết số 74/2022/QH15 ngày 15 tháng 11 năm 2022 của Quốc hội, Nghị quyết số 53/NQ-CP ngày 14 tháng 4 năm 2023 của Chính phủ và Quyết định số 213/QĐ-TTg ngày 01 tháng 3 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Tổng kiểm kê tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị và tài sản kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư, quản lý; Bộ Tài chính, các bộ, cơ quan trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã tích cực triển khai thực hiện Tổng kiểm kê tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị và tài sản kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư, quản lý. Thông qua việc thực hiện Tổng kiểm kê đã góp phần giúp đơn vị rà soát lại hiện trạng sử dụng của từng tài sản, củng cố, cập nhật, bổ sung, hồ sơ quản lý, theo dõi, hạch toán tài sản đảm bảo thống nhất giữa số liệu thực tế và sổ sách, nhiều tài sản chưa được theo dõi trên sổ kế toán đã được đơn vị xác định giá trị để phục vụ công tác kiểm kê cũng như hạch toán, theo dõi tài sản của đơn vị; qua đó tăng cường công tác quản lý tài sản công. Đồng thời, kết quả Tổng kiểm kê tài sản công là cơ sở quan trọng phục vụ cho các bộ, cơ quan trung ương, địa phương thực hiện việc sắp xếp, bố trí, xử lý tài sản công khi sắp xếp tinh gọn bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính trong giai đoạn vừa qua.

Để tiếp tục phát huy kết quả Tổng kiểm kê tài sản công và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính thực hiện công khai kết quả Tổng kiểm kê tài sản công tại cơ quan, tổ chức đơn vị và tài sản kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư, quản lý.

Quản lý chặt chẽ đầu ra của quá trình đầu tư công

Về hoàn thiện chính sách, pháp luật, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ quản lý ngành, lĩnh vực và các địa phương tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các chính sách quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác các loại tài sản kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư, quản lý. Trên cơ sở đó, các bộ quản lý ngành, lĩnh vực căn cứ vào đặc thù và yêu cầu quản lý của từng loại tài sản kết cấu hạ tầng thuộc ngành, lĩnh vực để quy định các nội dung cụ thể, đặc thù mang tính chuyên ngành đối với từng loại tài sản kết cấu hạ tầng.

Bộ Tài chính tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư công, ngân sách nhà nước liên quan đến việc đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản, cải tạo, sửa chữa, bảo trì tài sản để đồng bộ và có sự liên thông với pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công nhằm bảo đảm quản lý chặt chẽ đầu ra của quá trình đầu tư công.

Sửa đổi tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công

Về tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công, Thủ tướng Chính phủ giao giao Bộ Tài chính bám sát việc ban hành hệ thống chức danh, chức vụ của cơ quan, người có thẩm quyền để kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công cho phù hợp.

Các bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý thực hiện rà soát để đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công chuyên dùng, quyết định tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy định nhằm bảo đảm tài sản phục vụ yêu cầu công tác.

Bảo đảm tính "đúng - đủ - sạch - sống" dữ liệu tài sản công

Về việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công, Bộ Tài chính xây dựng, nâng cấp Cơ sở dữ liệu về quản lý tài sản công theo hướng lấy kết quả Tổng kiểm kê tài sản công làm số dư đầu kỳ tại thời điểm 0h ngày 01 tháng 01 năm 2025 để tận dụng, phát huy kết quả Tổng kiểm kê tài sản công, đồng thời thực hiện chuẩn hóa số liệu trên Phần mềm theo mô hình tổ chức bộ máy mới; nghiên cứu bổ sung một số nghiệp vụ, thông tin quản lý tài sản và thực hiện kết nối với Cơ sở dữ liệu về tài sản công của các bộ, ngành, địa phương cũng như chia sẻ, kết nối với cơ sở dữ liệu khác của ngành tài chính để bảo đảm tính "đúng - đủ - sạch - sống" của dữ liệu tài sản công, đảm bảo tính ổn định lâu dài trong hoạt động thông tin ngành tài chính về lĩnh vực công sản; đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý, sử dụng tài sản công.

Phải thẩm định chặt chẽ dự toán đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản công

Về công tác tổ chức quản lý, sử dụng tài sản công, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu triển khai đầy đủ, kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công. Trong đó, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chính sách mới về quản lý, sử dụng tài sản công tới các bộ, ngành, địa phương nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thực hiện công tác quản lý tài sản công.

Các bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công đã được ban hành, kịp thời rà soát, ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền của bộ, cơ quan trung ương, địa phương (văn bản về phân cấp thẩm quyền; tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công chuyên dùng; quy định thời gian sử dụng, tỷ lệ tính hao mòn tài sản cố định vô hình, tài sản kết cấu hạ tầng giao thông (đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa, hàng hải...); quyết định giao tài sản kết cấu hạ tầng cho đối tượng quản lý;...) để làm cơ sở cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý triển khai thực hiện công tác quản lý, sử dụng và khai thác tài sản công theo đúng quy định.

Trên cơ sở kết quả thực hiện Tổng kiểm kê chỉ đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý căn cứ quy định của pháp luật để xác định giá trị của các tài sản chưa xác định giá trị để làm cơ sở đưa vào quản lý, hạch toán theo quy định của pháp luật; giao Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện.

Các bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng trong quá trình lập dự toán đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản công phải gắn với thực trạng tài sản công; phải xuất phát từ sự cần thiết, trên cơ sở tiêu chuẩn, định mức được phê duyệt, phải thẩm định chặt chẽ ngay từ khi lập, giao dự toán ngân sách, phê duyệt chủ trương đầu tư, mua sắm, sửa chữa, nâng cấp tài sản công, kiểm soát chi và quyết toán ngân sách; chỉ đạo xử lý dứt điểm các tài sản hỏng, không sử dụng được theo đúng quy định của pháp luật.

Gắn trách nhiệm và có chế tài đối với các cơ quan, đơn vị trong việc quản lý, sử dụng tài sản công với việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm bảo đảm tài sản công được sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả.

Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công

Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán việc chấp hành pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công.

Cụ thể, Bộ Tài chính phải kiểm tra việc thực hiện Tổng kiểm kê tài sản công của một số bộ, ngành, địa phương; thông tin kết quả Tổng kiểm kê tài sản công tới Quốc hội, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước để tham khảo, làm cơ sở xác định đối tượng giám sát, thanh tra, kiểm toán chuyên đề việc chấp hành pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công.

Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan có chức năng của bộ, cơ quan trung ương, địa phương tự thực hiện việc kiểm tra công tác thực hiện Tổng kiểm kê tài sản công của các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý; thực hiện công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công của các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý.

0h ngày 1/1/2026 thực hiện rà soát, kiểm kê lại tài sản công theo mô hình tổ chức bộ máy mới

Các Bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở nguyên tắc, phạm vi, đối tượng tổng kiểm kê đã được phê duyệt tại Quyết định số 213/QĐ-TTg ngày 01 tháng 3 năm 2024 để chỉ đạo thực hiện rà soát, kiểm kê lại tài sản công thuộc phạm vi quản lý tại thời điểm 0h00 ngày 01 tháng 01 năm 2026 theo mô hình tổ chức bộ máy mới; giao Bộ Tài chính hướng dẫn, đôn đốc các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương triển khai thực hiện, tổng hợp kết quả báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Bộ Tài chính đề xuất cụ thể việc khen thưởng cao trong triển khai thực hiện Tổng kiểm kê tài sản công; các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khen thưởng cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện Tổng kiểm kê tài sản công theo Công điện số 138/CĐ-TTg ngày 20 tháng 12 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ và quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.

Ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo 

 Ngày 26/8/2025, Phó Thủ tướng Mai Văn Chính ký Quyết định số 1838/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo (Kế hoạch).

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 26/8/2025- Ảnh 3.

Triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo số 75/2025/QH15 được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 9 ngày 16 tháng 6 năm 2025, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2026.

Để triển khai thi hành Luật kịp thời, thống nhất và hiệu quả, Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo nhằm xác định cụ thể công việc, thời hạn, tiến độ hoàn thành và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan trong việc tổ chức triển khai thi hành Luật, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả.

Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các địa phương và cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan trong việc thực hiện các hoạt động triển khai thi hành Luật trên phạm vi cả nước; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và nhân dân trong việc triển khai thi hành Luật.

Trước 15/11/2025, ban hành Quy chuẩn kỹ thuật về phương tiện quảng cáo ngoài trời

Theo Kế hoạch, trong năm 2025 và các năm tiếp theo, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để thực hiện theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp, thống nhất với quy định của Luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng Nghị định quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành Luật Quảng cáo. Thời gian trình Chính phủ trước ngày 15 tháng 10 năm 2025.

Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các bộ, cơ quan, địa phương và tổ chức có liên quan xây dựng Thông tư ban hành Quy chuẩn kỹ thuật về phương tiện quảng cáo ngoài trời. Thời gian hoàn thành và ban hành trước ngày 15 tháng 11 năm 2025.

Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quảng cáo

Tháng 12 năm 2025, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan tổ chức Hội nghị quán triệt, tuyên truyền, phổ biến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình khác và các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan chủ trì đăng tải, cập nhật toàn văn nội dung Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật trên Cổng, Trang thông tin điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật và các hình thức phù hợp khác để cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân dễ dàng tiếp cận, khai thác, sử dụng.

Triển khai các hình thức phổ biến pháp luật phù hợp; biên soạn, đăng tải, phát hành rộng rãi tài liệu, phổ biến và phối hợp với Bộ Tư pháp để cập nhật trên Cổng Thông tin điện tử Phổ biến giáo dục pháp luật quốc gia tại địa chỉ: http://pbgdpl.gov.vn.

Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quảng cáo bằng các hình thức cụ thể; phối hợp với các cơ quan báo chí tổ chức thực hiện các chuyên mục, chương trình, tin, bài phổ biến và các hình thức khác theo quy định của pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng cụ thể.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan chủ trì rà soát, thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo theo lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân công.

Ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Hóa chất

Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn vừa ký Quyết định số 1837/QĐ-TTg ngày 26/8/2025 ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Hóa chất.

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 26/8/2025- Ảnh 4.

Kế hoạch tập trung vào 02 nội dung chính về công tác hoàn thiện, thể chế chính sách và công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật.

Kế hoạch nêu trên nhằm tuyên truyền, phổ biến, tập huấn Luật Hóa chất số 69/2025/QH15 đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến hóa chất; nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của người dân trong việc sản xuất, kinh doanh, sử dụng hóa chất và tuân thủ Luật Hóa chất; tổ chức rà soát các văn bản có liên quan đến hóa chất để sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hoặc bãi bỏ.

Đồng thời, xác định cụ thể các nội dung công việc, thời hạn, tiến độ hoàn thành, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tổ chức triển khai thi hành Luật Hóa chất; cơ chế phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và địa phương trong việc tiến hành các hoạt động triển khai thi hành Luật Hóa chất trên phạm vi cả nước.

Kế hoạch tập trung vào 02 nội dung chính về công tác hoàn thiện, thể chế chính sách và công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật. Cụ thể:

Thực hiện hệ thống hóa, lập danh mục các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực hóa chất

Về công tác hoàn thiện thể chế, chính sách, Quyết định phân công cụ thể nhiệm vụ tổ chức rà soát văn bản quy phạm pháp luật.

Theo đó, Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành thực hiện hệ thống hóa, lập danh mục các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực hóa chất; rà soát để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới, đảm bảo phù hợp với quy định của Luật Hóa chất. Các bộ, ngành căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao có trách nhiệm tổ chức việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hóa chất thuộc lĩnh vực mình phụ trách, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới, đảm bảo phù hợp với quy định của Luật Hóa chất.

Các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp gửi Danh mục các văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ về Bộ Công Thương trước ngày 05/9/2025 để tổng hợp, theo dõi, đôn đốc và phối hợp thực hiện theo quy định.

Quyết định cũng phân công cụ thể nhiệm vụ xây dựng chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính.

Theo đó, Bộ Công Thương, các bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố triển khai xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Luật Hóa chất theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, nghị quyết được Quốc hội Khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 9.

Đồng thời, chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng Danh mục các văn bản và các nội dung cần thiết khác; đảm bảo cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong đó có Cơ sở dữ liệu chuyên ngành hóa chất để thực thi Luật Hóa chất.

Tổ chức phổ biến, tuyên truyền, tập huấn chuyên sâu các nội dung của Luật Hóa chất

Về công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, Kế hoạch giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ: Quốc phòng, Công an, Tư pháp, Tài chính, Xây dựng, Nông nghiệp và Môi trường, Y tế, Khoa học và Công nghệ; Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan, tổ chức có liên quan, xây dựng, biên soạn tài liệu phổ biến, tuyên truyền, tập huấn chuyên sâu các nội dung của Luật Hóa chất để các cơ quan, tổ chức có liên quan tham khảo, sử dụng thống nhất trên toàn quốc. Hình thức tổ chức có thể trực tiếp hoặc trực tuyến. Thời gian thực hiện trong năm 2025 và các năm tiếp theo.

Ngoài ra, Bộ Công Thương chủ trì xây dựng, tổ chức chuỗi sự kiện, chương trình tọa đàm, thực hiện các chuyên mục, chương trình, tin, bài phổ biến, các cuộc thi tìm hiểu kiến thức về pháp luật hóa chất; hội nghị quán triệt, tuyên truyền phổ biến, tập huấn chuyên sâu về Luật Hóa chất, các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Luật này và các văn bản pháp luật có liên quan đối với cán bộ, công chức của các sở, ban, ngành các cấp, các doanh nghiệp, tổ chức có hoạt động liên quan đến hóa chất tại địa phương. Thời gian thực hiện trong năm 2025, 2026 và các năm tiếp theo.

Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký (26/8/2025).

Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế 

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính - Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế vừa ký Quyết định số 124/QĐ-BCĐHNQT ngày 26/8/2025 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo này.

Quy chế này quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc và quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế.

Nguyên tắc làm việc

Trưởng Ban Chỉ đạo, các Phó Trưởng Ban chỉ đạo và các Ủy viên Ban Chỉ đạo làm việc theo chế độ kiêm nhiệm.

Ban Chỉ đạo quốc gia làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thảo luận công khai, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất, đề cao trách nhiệm của Trưởng Ban Chỉ đạo. Trưởng Ban Chỉ đạo là người quyết định cuối cùng đối với các vấn đề của Ban Chỉ đạo; các Phó Trưởng Ban Chỉ đạo được quyết định một số vấn đề cụ thể theo phân công, ủy quyền của Trưởng Ban Chỉ đạo; các Ủy viên Ban Chỉ đạo chịu trách nhiệm triển khai công việc được phân công và chủ động chỉ đạo cơ quan chức năng triển khai các nhiệm vụ thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước được giao.

Trưởng Ban Chỉ đạo chủ trì các cuộc họp theo kế hoạch và triệu tập các cuộc họp đột xuất khi cần thiết. Trưởng Ban có thể ủy quyền cho Phó Trưởng Ban thường trực Chỉ đạo chủ trì các cuộc họp để thảo luận, quyết định một số vấn đề cụ thể thuộc nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo.

Các Ủy viên của Ban Chỉ đạo có trách nhiệm tham dự đầy đủ các cuộc họp của Ban Chỉ đạo, chuẩn bị ý kiến bằng văn bản về các nội dung của cuộc họp; trường hợp do bận công tác quan trọng khác không thể tham dự họp, phải báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo và ủy quyền cho người đại diện có thẩm quyền dự họp; ý kiến của người dự họp là ý kiến chính thức của Ủy viên Ban Chỉ đạo.

Chế độ làm việc, thông tin và báo cáo

Ban Chỉ đạo quốc gia họp định kỳ 3 tháng/lần và họp bất thường theo quyết định của Trưởng Ban Chỉ đạo, theo hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến. Ngoài việc họp trực tiếp để thảo luận, Cơ quan thường trực có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của các Ủy viên Ban Chỉ đạo, tổng hợp, báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo xem xét, quyết định.

Căn cứ tình hình thực tế và yêu cầu nhiệm vụ từng thời điểm, Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo có thể đề xuất mời các tổ chức, cá nhân liên quan tham dự cuộc họp Ban Chỉ đạo theo quy định của pháp luật.

Các Ban Chỉ đạo liên ngành, Ủy viên Ban Chỉ đạo có trách nhiệm báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo theo chế độ định kỳ 6 tháng/lần, mỗi năm/lần hoặc đột xuất theo yêu cầu của Trưởng Ban Chỉ đạo về tình hình triển khai nhiệm vụ, hoạt động được phân công thuộc trách nhiệm, thẩm quyền và lĩnh vực quản lý nhà nước của cơ quan, địa phương mình; đồng thời, chủ động báo cáo những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Báo cáo của các Ban Chỉ đạo liên ngành, Ủy viên Ban Chỉ đạo được gửi tới Trưởng Ban Chỉ đạo, đồng thời gửi tới Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo để theo dõi, tổng hợp chung phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Trưởng Ban Chỉ đạo. Chú trọng tăng cường ứng dụng công nghệ, công nghệ số vào công tác báo cáo để nâng cao hiệu quả, rút ngắn thời gian phối hợp liên ngành.

Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo quốc gia chuẩn bị nội dung, chương trình và các điều kiện cần thiết cho các cuộc họp của Ban Chỉ đạo quốc gia; định kỳ báo cáo tình hình triển khai thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến công tác hội nhập quốc tế trên phạm vi toàn quốc; thực hiện sơ kết, tổng kết tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW.

Trách nhiệm của Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo

Bộ Ngoại giao là Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo quốc gia, có trách nhiệm tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của Ban Chỉ đạo.

Cụ thể, cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ được quy định tại Điều 15 Quyết định số 23/2023/QĐ-TTg ngày 18/9/2023 của Thủ tướng Chính phủ; giúp Ban Chỉ đạo, Trưởng Ban Chỉ đạo đôn đốc Ủy viên Ban Chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Đồng thời, cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo chủ trì hoặc phối hợp với các Ban Chỉ đạo liên ngành và các cơ quan liên ngành đề xuất với Ban Chỉ đạo, Trưởng Ban Chỉ đạo các chủ trương, định hướng, kiến nghị, sửa đổi bổ sung các cơ chế, chính sách, giải pháp trong quá trình thực hiện công tác hội nhập quốc tế, trong đó có Nghị quyết số 59-NQ/TW.

Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo đề xuất, lấy ý kiến Ban Chỉ đạo liên ngành, Ủy viên Ban Chỉ đạo về các vấn đề liên quan đến triển khai công tác hội nhập quốc tế; tổng hợp, chuẩn bị nội dung các cuộc họp định kỳ và đột xuất; chuẩn bị các văn bản chỉ đạo, điều hành của Trưởng Ban Chỉ đạo; lưu giữ hồ sơ tài liệu và quản lý kinh phí hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia theo quy định của Nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ khác do Ban Chỉ đạo quốc gia, Trưởng Ban Chỉ đạo giao.

Phê chuẩn kết quả bầu chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La nhiệm kỳ 2021 – 2026 

 Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 1809/QĐ-TTg phê chuẩn kết quả bầu chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La nhiệm kỳ 2021 - 2026 đối với ông Nguyễn Minh Tiến, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Sơn La.

Quyết định trên có hiệu lực từ ngày 22/8/2025./.