• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 3/6

(Chinhphu.vn) - Thông cáo báo chí của VPCP về công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 3/6/2023.

03/06/2023 16:55

 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã 

 Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 3/6/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã.

Chỉ thị nêu: Khu vực kinh tế tập thể (trong đó bao gồm các tổ chức kinh tế hợp tác, hợp tác xã) luôn được Đảng, Nhà nước và các đối tác phát triển quan tâm, hỗ trợ. Thời gian qua, phát triển khu vực kinh tế tập thể nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhận thức tầm quan trọng về phát triển khu vực kinh tế tập thể của các cấp, các ngành được nâng lên; thể chế, cơ chế chính sách được hoàn thiện; số lượng hợp tác xã tăng lên và hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã được cải thiện. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tập thể của nước ta đến nay chưa phát triển như mục tiêu, yêu cầu. Năng lực nội tại của hợp tác xã còn yếu, hiệu quả hoạt động chưa cao; mô hình tổ chức lỏng lẻo, chưa phù hợp với xu thế phát triển; nguồn lực tài chính và trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã còn hạn chế. Một trong những nguyên nhân của các hạn chế nêu trên là chuyển đổi số còn chậm, thiếu tính chiến lược, hành động cụ thể.

Do đó, khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã phải chủ động thực hiện chuyển đổi số, để đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh, thích nghi với tình hình phát triển mới.

Chuyển đổi số là yêu cầu thực tiễn khách quan của sự phát triển

Để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số trong khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, Ủy ban nhân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng các cơ quan có liên quan quán triệt quan điểm: Bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2022, Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới.

Chuyển đổi số là yêu cầu thực tiễn khách quan của sự phát triển đối với mọi thành phần kinh tế, trong đó có khu vực kinh tế tập thể. Chuyển đổi số trong khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã gắn kết chặt chẽ với các chiến lược, chính sách về chủ động tham gia Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, định hướng phát triển kinh tế số và chuyển đổi số quốc gia; huy động mọi nguồn lực, phát triển theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng với các khu vực kinh tế khác.

Chuyển đổi số là một quá trình diễn ra không ngừng nghỉ, không có điểm dừng, đòi hỏi tinh thần quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả, tránh tư tưởng hình thức; chuyển đổi số trên cơ sở phù hợp thực tiễn và thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, từ thấp đến cao để đem lại những kết quả cụ thể, thiết thực.

Chuyển đổi số nhằm chuyển đổi mô hình quản trị sản xuất, kinh doanh trong khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã một cách linh hoạt, phù hợp đạt hiệu quả cao, tiết giảm chi phí, tối ưu nguồn lực. Quá trình chuyển đổi này đòi hỏi sự tham gia, chung tay của cả hệ thống chính trị, các hợp tác xã, người dân và doanh nghiệp.

Chuyển đổi số phải bám sát thực tiễn; xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo; đối với những vấn đề được thực tiễn chứng minh là hợp lý, hiệu quả thì tiếp tục thực hiện, nhân rộng; những vấn đề mới, chưa rõ, còn ý kiến khác nhau thì mạnh dạn đổi mới, làm thí điểm.

Thực hiện mạnh mẽ xây dựng các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu và nền tảng số phục vụ cho chuyển đổi số trong khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã sử dụng tài nguyên thông tin, dữ liệu thiết thực, hiệu quả, có tính kết nối, liên thông cao.

Các nhiệm vụ, giải pháp

Chỉ thị yêu cầu các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và thành viên Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, Trưởng Ban Chỉ đạo chuyển đổi số của các bộ, ngành, địa phương phải khẩn trương, quyết liệt tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao trong Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, Chiến lược quốc gia phát triển Chính phủ số, Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số; các nhiệm vụ tại Kế hoạch số 10-KH/TW ngày 23 tháng 8 năm 2022 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2023 của Chính phủ nhằm đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới, trong đó coi việc chuyển đổi số trong hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế hợp tác, hợp tác xã là nhiệm vụ trọng tâm và nhân tố cốt lõi; thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp thúc đẩy việc chuyển đổi số, gắn với đổi mới quản lý và phương thức hoạt động của mô hình kinh tế này.

Tăng cường huy động các nguồn lực, kết nối các đối tác trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nhằm hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã chuyển đổi số; kết nối và tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu thông qua chuyển đổi số (tham gia các sàn thương mại điện tử, xây dựng website để giới thiệu sản phẩm bằng nhiều ngôn ngữ...).

Đồng thời, đẩy mạnh công tác truyền thông, đặc biệt hoạt động truyền thông chính sách, giúp các tổ chức kinh tế hợp tác, hợp tác xã nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về chuyển đổi số; nhận thức đầy đủ về xu thế tất yếu, thách thức và cơ hội của chuyển đổi số.

Chủ động giải quyết các vấn đề trong thẩm quyền và phối hợp với các cơ quan có liên quan báo cáo cấp có thẩm quyền để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ liên quan đến phát triển kinh tế tập thể, trong đó có chuyển đổi số cho khu vực này.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương triển khai xây dựng, quản lý, vận hành, khai thác có hiệu quả hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về kinh tế tập thể, liên thông với hệ thống đăng ký kinh doanh, thuế và các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành khác; xây dựng một số nền tảng số để phục vụ, hỗ trợ cho hợp tác xã về thông tin thị trường, khoa học công nghệ; trao đổi, tư vấn pháp luật, chính sách; đào tạo; sàn giao dịch điện tử; hợp tác quốc tế...

Tiếp tục phối hợp với các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan có liên quan chỉnh lý, hoàn thiện hồ sư Dự án Luật Hợp tác xã sửa đổi và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, đặc biệt nội dung chuyển đổi số phải là một nội dung cốt lõi, làm nền tảng; bổ sung cơ chế được sử dụng ngân sách nhà nước hỗ trợ chuyển đổi số cho hợp tác xã tại Dự án Luật. 

Các cơ chế đặc thù cho hợp tác xã

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan vận động các đối tác phát triển sử dụng vốn ODA và huy động các nguồn hợp pháp khác để hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác, hợp tác xã chuyển đổi số, trong đó lưu ý các nội dung: (i) có các cơ chế đặc thù cho hợp tác xã theo tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới; (ii) xây dựng và phát triển một số nền tảng cơ sở dữ liệu dùng chung và bước đầu miễn phí; (iii) đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý hợp tác xã về chuyển đổi số, đào tạo kỹ năng số cho thành viên và người lao động trong hợp tác xã; (iv) xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm áp dụng công nghệ hiện đại từ đầu vào đến đầu ra của sản phẩm.

Đồng thời, đẩy mạnh công tác truyền thông với nhiều hình thức đa dạng về chuyển đổi số trong khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã và kết quả của Diễn đàn Kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2022.

Triển khai số hóa cơ sở dữ liệu, thông tin về hợp tác xã nông nghiệp

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền ban hành các cơ chế, chính sách, quy định cho việc thực hiện truy xuất nguồn gốc nông sản bằng công nghệ số để bảo vệ và khuyến khích các nhà đầu tư, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp sạch, công nghệ cao, hữu cơ và tuần hoàn.

Triển khai số hóa cơ sở dữ liệu, thông tin về hợp tác xã nông nghiệp. Đẩy mạnh hướng dẫn, hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động sản xuất kinh doanh.

Chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương đẩy mạnh chuyển đổi số đối với các hợp tác xã tham gia Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2021 - 2025 (OCOP) theo Quyết định số 919/QĐ-TTg ngày 01 tháng 8 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ.

Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn các tổ chức kinh tế hợp tác, hợp tác xã có dự án ứng dụng, nâng cao trình độ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được vay vốn trung và dài hạn từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của các bộ, ngành, địa phương.

Bộ Tài chính cân đối, bố trí kinh phí thường xuyên từ nguồn ngân sách trung ương để thực hiện các chính sách hỗ trợ hợp tác xã theo Chương trình hỗ trợ, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025 theo Quyết định số 1804/QĐ-TTg ngày 13 tháng 11 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ.

Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn, tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách, pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chương trình, đề án quốc gia về kinh tế số, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, giải pháp, công nghệ chuyển đổi số đối với các hợp tác xã theo quy định của pháp luật; Hỗ trợ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam để phát triển nền tảng quản trị số; Hệ sinh thái số; Phát triển sàn thương mại điện tử thúc đẩy phát triển kinh tế số khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã; phối hợp xây dựng và triển khai Chương trình hỗ trợ các hộ sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể chuyển đổi số, kinh doanh trên sàn thương mại điện tử.

Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tập thể phát triển tại địa phương

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo, tổ chức triển khai cơ chế chính sách, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tập thể phát triển tại địa phương. Chủ động thực hiện chuyển đổi số theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền.

Đồng thời, xây dựng và nhân rộng các mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả, mô hình hợp tác xã thực hiện chuyển đổi số thành công, tiết giảm chi phí, tối ưu hóa nguồn lực; liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị; ứng dụng công nghệ cao và thúc đẩy chuyển đổi số.

Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, lồng ghép các nguồn vốn từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội và 03 Chương trình mục tiêu quốc gia thực hiện ở địa phương để phát triển kinh tế tập thể, thúc đẩy chuyển đổi số trong khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã.

Hệ thống Liên minh hợp tác xã tiếp tục đổi mới hoạt động của hệ thống, thể hiện tốt vai trò là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với khu vực kinh tế tập thể; bám sát tình hình, nắm rõ những khó khăn, nhu cầu của hợp tác xã để phản ánh đến các cấp có thẩm quyền; thực hiện các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức, tư vấn phương án chuyển đổi số phù hợp cho các hợp tác xã; xây dựng và nhân rộng một số mô hình hợp tác xã chuyển đổi số hiệu quả; hướng dẫn thủ tục để giúp các hợp tác xã tăng khả năng tiếp cận chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

 Chính phủ ban hành quy định mới về tinh giản biên chế 

 Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 29/2023/NĐ-CP ngày 3/6/2023 quy định về tinh giản biên chế, có hiệu lực thi hành từ ngày 20/7/2023. Các chế độ chính sách quy định tại Nghị định này được áp dụng đến hết ngày 31/12/2030. 

 Đối tượng thực hiện chính sách tinh giản biên chế

Nghị định quy định những đối tượng sau thực hiện chính sách tinh giản biên chế gồm: 

1. Cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ, công chức cấp xã và người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các cơ quan hành chính được áp dụng chế độ, chính sách như công chức theo quy định của Chính phủ, nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

a) Dôi dư do rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, nhân sự theo quyết định của cấp có thẩm quyền hoặc dôi dư do đơn vị sự nghiệp công lập sắp xếp tổ chức bộ máy, nhân sự để thực hiện cơ chế tự chủ;

b) Dôi dư do sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo quyết định của cấp có thẩm quyền;

c) Dôi dư do cơ cấu lại cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, nhưng không thể bố trí, sắp xếp được việc làm khác hoặc bố trí được việc làm khác nhưng cá nhân tự nguyện tinh giản biên chế và được cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý;

d) Chưa đạt trình độ đào tạo theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ quy định đối với vị trí việc làm đang đảm nhiệm, nhưng không có vị trí việc làm khác phù hợp để bố trí và không thể bố trí đào tạo lại để chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ hoặc được cơ quan bố trí việc làm khác nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế và được cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý;

đ) Có 02 năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế, cán bộ, công chức, viên chức có 01 năm xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành nhiệm vụ và 01 năm không hoàn thành nhiệm vụ nhưng không thể bố trí việc làm khác phù hợp; trong năm trước liền kề hoặc trong năm thực hiện xét tinh giản biên chế xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành nhiệm vụ trở xuống nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế và được cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý;

e) Có 02 năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế mà trong từng năm đều có tổng số ngày nghỉ làm việc bằng hoặc cao hơn số ngày nghỉ tối đa do ốm đau theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật Bảo hiểm xã hội, có xác nhận của cơ quan Bảo hiểm xã hội chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định hiện hành của pháp luật; trong năm trước liền kề hoặc trong năm thực hiện xét tinh giản biên chế có tổng số ngày nghỉ làm việc bằng hoặc cao hơn số ngày nghỉ tối đa do ốm đau theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật Bảo hiểm xã hội, có xác nhận của cơ quan Bảo hiểm xã hội chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định hiện hành của pháp luật, cá nhân tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế và được cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý;

g) Cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý thôi giữ chức vụ, chức danh do sắp xếp tổ chức bộ máy, đơn vị hành chính theo quyết định của cấp có thẩm quyền, cá nhân tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế và được cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý;

h) Cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian bị kỷ luật nhưng chưa đến mức bị bãi nhiệm hoặc bị buộc thôi việc theo quy định của pháp luật tại thời điểm xét tinh giản biên chế, cá nhân tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế, được cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý.

2. Người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động không xác định thời hạn thực hiện các công việc chuyên môn nghiệp vụ thuộc danh mục vị trí việc làm chức danh nghề nghiệp chuyên ngành và vị trí việc làm chức danh nghề nghiệp chuyên môn dùng chung trong đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của Chính phủ dôi dư do sắp xếp lại tổ chức hoặc cơ cấu lại nhân lực của đơn vị theo quyết định của cấp có thẩm quyền.

3. Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư do sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố dôi dư do sắp xếp thôn, tổ dân phố khi sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã nghỉ trong thời gian 12 tháng kể từ khi có quyết định sắp xếp của cấp có thẩm quyền.

Chính sách tinh giản biên chế

Nghị định quy định rõ các chính sách tinh giản biên chế: Chính sách nghỉ hưu trước tuổi; chính sách chuyển sang làm việc tại các tổ chức không hưỏng lương thường xuyên từ ngân sách nhà nước; chính sách thôi việc; chính sách nghỉ hưu trước tuổi đối với cán bộ, công chức cấp xã dôi dư do sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã có tuổi thấp hơn tối đa đủ 10 tuổi và thấp hơn tối thiểu trên 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; chính sách đối với đối tượng tinh giản biên chế dôi dư do sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã nghỉ từ khi có quyết định sắp xếp của cấp có thẩm quyền đến trước thời điểm kết thúc lộ trình sắp xếp...

Trong đó, đối với chính sách nghỉ hưu trước tuổi, Nghị định quy định: 

1. Đối tượng tinh giản biên chế có tuổi thấp hơn tối đa đủ 05 tuổi và thấp hơn tối thiếu đủ 02 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 2020 của Chính phủ quy định về tuổi nghỉ hưu (Nghị định số 135/2020/NĐ-CP) và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên, trong đó có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hoặc có đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01 tháng 01 năm 2021, ngoài hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội thì còn được hưởng các chế độ sau:

a) Không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi;

b) Được trợ cấp 03 tháng tiền lương bình quân cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP;

c) Được trợ cấp 05 tháng tiền lương bình quân cho hai mươi năm đầu công tác, có đóng đủ bảo hiểm xã hội bắt buộc. Từ năm thứ hai mươi mốt trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được trợ cấp 1/2 tháng tiền lương.

2. Đối tượng tinh giản biên chế có tuổi thấp hơn tối đa đủ 05 tuổi và thấp hơn tối thiểu đủ 02 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên thì được hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 54 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 (được sửa đổi, bổ sung năm 2019), ngoài hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội thì còn được hưởng các chế độ sau:

a) Được trợ cấp 03 tháng tiền lương bình quân cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP;

b) Được hưởng chế độ quy định tại điểm a, điểm c mục 1 ở trên.

3. Đối tượng tinh giản biên chế có tuổi tối thiểu thấp hơn 02 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên, trong đó có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01 tháng 01 năm 2021 thì được hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi.

4. Đối tượng tinh giản biên chế có tuổi tối thiểu thấp hơn 02 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên (riêng nữ cán bộ, công chức cấp xã thì có từ đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên) thì được hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi.

5. Đối tượng tinh giản biên chế là nữ cán bộ, công chức cấp xã có tuổi thấp hơn tối đa đủ 05 tuổi và thấp hơn tối thiểu đủ 02 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP mà có đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, ngoài hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội thì còn được hưởng các chế độ sau:

a) Không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi;

b) Được hưởng trợ cấp 05 tháng tiền lương bình quân và chế độ quy định tại điểm a mục 2.

Đối với chính sách chuyển sang làm việc tại các tổ chức không hưỏng lương thường xuyên từ ngân sách nhà nước, Nghị định quy định:

1. Đối tượng tinh giản biên chế chuyển sang làm việc tại các tổ chức không hưởng kinh phí thường xuyên từ ngân sách nhà nước được hưởng các khoản trợ cấp sau:

a) Được trợ cấp 03 tháng tiền lương hiện hưởng;

b) Được trợ cấp 1/2 tháng tiền lương bình quân cho mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.

2. Không áp dụng chính sách quy định tại mục 1 ở trên đối với những người đã làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập khi đơn vị chuyển đổi sang đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên hoặc đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư hoặc doanh nghiệp hoặc cổ phần hóa vẫn được giữ lại làm việc; những người thuộc đối tượng tinh giản biên chế có tuổi thấp hơn đủ 03 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP, có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên, trong đó có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hoặc có đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01 tháng 01 năm 2021; những người thuộc đối tượng tinh giản biên chế có tuổi thấp hơn đủ 03 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP, có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên.

  Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy Cần Thơ 

 Văn phòng Chính phủ vừa phát đi Thông báo số 205/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy Cần Thơ.

Thông báo nêu rõ: Kế thừa những thành quả đạt được trong thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Cần Thơ đã khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực phấn đấu, tích cực triển khai các nhiệm vụ đề ra, tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2023 của Thành phố đạt được những kết quả tích cực: Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng 4,02% cao hơn mức bình quân chung của cả nước; chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng khoảng 4,81%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 13,42%; kim ngạch xuất khẩu tăng 7,1%. Giải ngân ngân sách cao hơn mức bình quân chung cả nước, đạt 23,6% kế hoạch. Tổng thu ngân sách nhà nước tăng 27%...

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Thành phố còn một số tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức cần khắc phục như: Thu hút đầu tư từ doanh nghiệp vào nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế; đơn hàng xuất khẩu và quy mô sản xuất của nhiều doanh nghiệp bị sụt giảm; đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn. Tiến độ triển khai lập Quy hoạch cấp tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 của thành phố Cần Thơ còn chậm. Công tác đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng, đấu tranh, phòng, chống tội phạm, quốc phòng, an ninh còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp,…

Cần Thơ quyết tâm tháo gỡ khó khăn

Thủ tướng nhận định: Tình hình phát triển kinh tế trong thời gian tới có thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Vì vậy, Thành phố phải quyết tâm tháo gỡ khó khăn, vượt qua thách thức bằng các cơ chế, chính sách, bằng lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành, người dân, doanh nghiệp.

Trong đó, Thủ tướng lưu ý các cấp chính quyền thành phố Cần Thơ phải chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao trên tinh thần "Nguồn lực bắt nguồn từ tư duy, động lực bắt nguồn từ sự đổi mới, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân". Vận động nhân dân, tạo cơ chế, chính sách để nhân dân cùng tham gia, tạo sức mạnh xây dựng Thành phố phát triển bền vững; mạnh dạn vận dụng sáng tạo các cơ chế, chính sách, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới vì lợi ích chung.

Đồng thời, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực cán bộ thực thi, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, cá thể hóa trách nhiệm cá nhân. Vận dụng tối đa các quy định hiện hành để xử lý các vấn đề liên quan đất đai, xây dựng, phòng cháy, chữa cháy, môi trường, giải phóng mặt bằng các công trình trọng điểm quốc gia trên địa bàn. Huy động hiệu quả mọi nguồn lực của xã hội, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư, tăng cường hợp tác công tư…

Thành phố phải tích cực triển khai Quyết định số 6/QĐ-TTg ngày 6/1/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030; hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; đẩy mạnh chi trả không dùng tiền mặt cho các đối tượng hưởng chính sách an sinh xã hội; tăng cường triển khai dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia.

Tăng cường đổi mới và nâng cao chất lượng của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nâng cao hiệu quả đào tạo nhân lực chất lượng cao và kết nối cung - cầu trong thị trường lao động. Thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình sản xuất, kinh doanh, tổ chức đối thoại, lắng nghe, đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp theo tinh thần Chính phủ kiến tạo, chính quyền phục vụ nhân dân.

Tập trung giải ngân vốn đầu tư công, vốn 03 Chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội; kích cầu đầu tư, tiêu dùng, đẩy mạnh phong trào người Việt Nam dùng hàng Việt Nam; giao lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh trực tiếp phụ trách, thường xuyên kiểm tra đôn đốc các chủ đầu tư trong triển khai dự án, đôn đốc triển khai các nhóm dự án cụ thể, nhất là các dự án, công trình trọng điểm để chủ động xử lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Xác định việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là một trong những động lực tăng trưởng, là nhiệm vụ chính trị quan trọng trong năm 2023. Kết quả giải ngân vốn đầu tư công là căn cứ để đánh giá, khen thưởng, bồi dưỡng, đề bạt cán bộ, cũng như xử lý những trường hợp tổ chức, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ giải ngân năm 2023.

Thành phố khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch thành phố Cần Thơ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trong tháng 7/2023, trong đó cập nhật quỹ đất đai nhà ở xã hội vào Quy hoạch theo quy định. Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, bền vững, đẩy nhanh tiến độ rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án bất động sản cụ thể, nhất là các dự án lớn.

Đẩy mạnh triển khai các dự án nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, trong đó quy hoạch, bố trí đủ quỹ đất dành cho phát triển nhà ở xã hội; sử dụng hiệu quả nguồn vốn từ gói tín dụng 120.000 tỷ đồng, góp phần cùng cả nước hoàn thành mục tiêu đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ đến năm 2030; rà soát, yêu cầu chủ đầu tư thực hiện nghiêm việc đầu tư xây dựng nhà ở xã hội trên quỹ đất 20% trong các dự án nhà ở thương mại, khu đô thị theo chủ trương chung và tiến độ dự án đã được phê duyệt; đồng thời nghiên cứu cơ chế sử dụng trước 20% quỹ đất nhà ở xã hội trong các dự án để triển khai các dự án nhà ở xã hội, báo cáo Ban Thường vụ Thành ủy, Hội đồng nhân dân thành phố xem xét ban hành Nghị quyết để tổ chức thực hiện.

Hỗ trợ đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh

Bên cạnh đó, Thủ tướng cũng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng thương mại tiết giảm chi phí đầu vào, giảm chi phí hành chính không cần thiết; cải cách thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tiếp tục giảm lãi suất hỗ trợ người dân và doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, sinh kế cho người dân, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân. 

Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn các địa phương (trong đó có thành phố Cần Thơ) các thủ tục pháp lý về đầu tư, hợp tác công tư đối với những vướng mắc, bất cập liên quan đầu tư và ban hành hình thức văn bản phù hợp với quy định của pháp luật để triển khai thực hiện.

Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 95/2021/NĐ-CP ngày 1/11/2021, Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 3/9/2014 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu theo trình tự, thủ tục rút gọn, báo cáo Chính phủ; chủ trì, phối hợp với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long mở rộng thị trường sang Trung Đông, Qatar và Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UEA); khẩn trương ký kết Hiệp định thương mại tự do với Israel trong quý II năm 2023; tiếp tục đàm phán với các nước để mở cửa thị trường, nhất là thị trường sản phẩm Halal mà khu vực Đồng bằng sông Cửu Long giàu tiềm năng, lợi thế để xuất khẩu.

Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, sửa đổi Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường theo trình tự, thủ tục rút gọn, trình Chính phủ trong quý III năm 2023.

Bộ Y tế khẩn trương phối hợp, thống nhất với Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn xây dựng giá gói thầu trang thiết bị y tế tại các cơ sở y tế công lập trước ngày 15/6/2023.

Đồng thời, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định thuộc thẩm quyền và đề xuất sửa đổi các quy định pháp luật (nếu vượt thẩm quyền) còn chồng chéo, chưa đồng bộ, chưa thống nhất để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, phù hợp với thực tế; đồng thời trên cơ sở căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình chủ động phối hợp với địa phương đẩy nhanh tiến độ xử lý, giải quyết công việc có thời gian xác định hoàn thành cụ thể, chống tiêu cực tham nhũng, lợi ích nhóm trong tất cả các công việc.

Bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 

 Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 626/QĐ-TTg bổ nhiệm ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giữ chức Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.   

Kỷ luật một số cán bộ tỉnh Đồng Nai 

 Ngày 3/6/2023, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang vừa ký các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thi hành kỷ luật một số cán bộ tỉnh Đồng Nai.

Cụ thể, Quyết định số 629/QĐ-TTg nêu rõ thi hành kỷ luật bằng hình thức Cảnh cáo đối với ông Cao Tiến Dũng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai do đã có những vi phạm, khuyết điểm trong công tác và Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật về đảng; thời gian thi hành kỷ luật tính từ ngày công bố Quyết định số 966-QĐ/UBKTTW ngày 03/4/2023 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về thi hành kỷ luật đảng.

Theo Quyết định số 630/QĐ-TTg, thi hành kỷ luật bằng hình thức Cảnh cáo đối với ông Võ Văn Chánh, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai do đã có những vi phạm, khuyết điểm trong công tác và Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật về đảng; thời gian thi hành kỷ luật tính từ ngày công bố Quyết định số 967-QĐ/UBKTTW ngày 03/4/2023 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về thi hành kỷ luật đảng.

Theo Quyết định số 631/QĐ-TTg, thi hành kỷ luật bằng hình thức Cảnh cáo đối với ông Trần Văn Vĩnh, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai do đã có những vi phạm, khuyết điểm trong công tác và Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật về đảng; thời gian thi hành kỷ luật tính từ ngày công bố Quyết định số 833-QĐ/UBKTTW ngày 07/12/2022 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về thi hành kỷ luật đảng./.