Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký Công điện số 238/CĐ-TTg ngày 9/12/2025 về khắc phục hậu quả vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi.

Hiện trường vụ tai nạn trên cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi.
Công điện gửi Bộ trưởng các Bộ: Công an, Xây dựng và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng; Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia.
Công điện nêu: Vào hồi 04 giờ 10 phút ngày 09 tháng 12 năm 2025 đã xảy ra vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, đoạn Km71+200 thuộc địa bàn xã Tam Xuân, thành phố Đà Nẵng do xe ô tô chở khách 16 chỗ ngồi mang biển kiểm soát số 29B-081.62 va chạm với xe đầu kéo mang biển kiểm soát số 15C-360.35 kéo theo rơ moóc biển kiểm soát số 15R-140.06, hậu quả làm chết 03 người, bị thương một số người. Ngay khi nhận được thông tin vụ tai nạn, Lãnh đạo Chính phủ đã chỉ đạo gửi lời thăm hỏi ân cần, chu đáo tới người bị thương và chia buồn sâu sắc tới thân nhân, gia đình các nạn nhân tử vong; đồng thời chỉ đạo Lãnh đạo thành phố Đà Nẵng và lực lượng Công an, y tế tới hiện trường để khắc phục hậu quả vụ tai nạn.
Để kịp thời khắc phục hậu quả vụ tai nạn nêu trên và ngăn chặn các vụ tai nạn giao thông tương tự, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng
a) Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng bố trí ngay mọi điều kiện về y tế, thuốc men để cứu chữa người bị nạn, hạn chế thấp nhất các tổn thất về người và tài sản của người dân; tổ chức thăm hỏi, hỗ trợ động viên người bị nạn và gia đình các nạn nhân tử vong trong vụ tai nạn;
b) Trực tiếp chủ trì tổ chức họp với các cơ quan, lực lượng chức năng đánh giá nguyên nhân, triển khai ngay các giải pháp khắc phục tồn tại, bất cập; đồng thời khẩn trương làm rõ các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp liên quan đến vụ tai nạn giao thông nêu trên theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 19 tháng 4 năm 2023 về tăng cường công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ trong tình hình mới và Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 21 tháng 4 năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường triển khai Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, làm căn cứ để tuyên truyền, thực hiện các giải pháp phòng ngừa trong thời gian tới.
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng chỉ đạo kiểm tra, rà soát việc chấp hành các quy định của pháp luật về hoạt động vận tải đường bộ của đơn vị kinh doanh vận tải, chủ xe, lái xe đối với xe ô tô thuộc
phạm vi quản lý trong vụ tai nạn nêu trên, nhất là kiểm tra về điều kiện an toàn của phương tiện, thời gian lái xe liên tục của các tài xế, công tác tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm trên cao tốc...; xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật đối với các vi phạm của nhà xe, chủ xe (nếu có).
3. Bộ trưởng Bộ Công an
a) Chỉ đạo Công an thành phố Đà Nẵng và Công an các đơn vị có liên quan khẩn trương điều tra, làm rõ nguyên nhân vụ tai nạn và xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật đối với tổ chức, cá nhân vi phạm quy định, gây ra vụ tai nạn nêu trên; lưu ý xử lý nghiêm đối với lái xe, chủ xe hoặc nhà xe và các cá nhân có liên quan trong trường hợp để xảy ra vi phạm quy định về điều kiện an toàn của phương tiện, việc chấp hành quy định của lái xe... trong vụ tai nạn nêu trên;
b) Chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương tăng cường tuần tra, kiểm soát chặt chẽ hoạt động vận tải đường bộ bằng xe ô tô, đặc biệt là xe chở hàng, chở người số lượng lớn; rà soát hệ thống thiết bị giám sát hành trình đối với xe ô tô kinh doanh vận tải, xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật đối với các hành vi vi phạm, nhất là vi phạm quy định về kiểm tra điều kiện an toàn của phương tiện.
4. Bộ trưởng Bộ Xây dựng chỉ đạo các đơn vị có liên quan rà soát, tổ chức giao thông hợp lý, khoa học trên các tuyến đường cao tốc, tăng cường công tác cảnh báo an toàn cho người tham gia giao thông, nhất là lái xe vào ban đêm; chỉ đạo các địa phương rà soát về điều kiện an toàn của phương tiện kinh doanh vận tải hành khách bằng xe ô tô nhằm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
5. Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia
a) Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, nhắc nhở các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp trong việc tăng cường triển khai các quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ; phối hợp với các cơ quan truyền thông và Ủy ban nhân dân các địa phương tăng cường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên các kênh thông tin của Đài Tiếng nói Việt Nam để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người điều khiển phương tiện giao thông, giảm thiểu các nguy cơ gây tai nạn giao thông, nhất là khi lái xe vào ban đêm;
b) Theo dõi các bộ, ngành, địa phương triển khai các nhiệm vụ tại Công điện này, báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại phiên họp tổng kết công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông năm 2025.
Chính phủ ban hành Nghị định số 311/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 71/2020/NĐ-CP ngày 30/6/2020 của Chính phủ quy định lộ trình thực hiện nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở.

Quy định mới trong thực hiện đào tạo nâng trình độ chuẩn của giáo viên - Ảnh VGP
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 71/2020/NĐ-CP nhằm bảo đảm hoàn thành mục tiêu chuẩn hóa về trình độ được đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở theo tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Hoàn thiện quy định về lộ trình thực hiện nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Luật Giáo dục 2019. Bảo đảm các quy định phù hợp với thực tiễn, đồng bộ và thống nhất với các quy định của pháp luật có liên quan, tạo hành lang pháp lý để các địa phương tổ chức triển khai thực hiện thuận lợi. Đồng thời, bảo đảm quyền lợi của đội ngũ nhà giáo mầm non, tiểu học, trung học cơ sở khi tham gia đào tạo nâng trình độ chuẩn.
Nghị định số 311/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 7 Nghị định số 71/2020/NĐ-CP về phương thức thực hiện đào tạo nâng trình độ chuẩn của giáo viên theo hướng tập trung vào giao nhiệm vụ/đặt hàng; bỏ phương thức đấu thầu và bổ sung thêm quy định giáo viên được chủ động đăng ký dự tuyển đối với các ngành hoặc chuyên ngành không đủ điều kiện mở lớp đào tạo. Cụ thể:
"Điều 7. Phương thức thực hiện đào tạo nâng trình độ chuẩn của giáo viên
1. Giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng: Địa phương giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng cơ sở đào tạo thực hiện nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên theo kế hoạch được phê duyệt. Việc giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng đào tạo nâng trình độ chuẩn của giáo viên thực hiện theo quy định hiện hành về giao nhiệm vụ, đặt hàng sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên.
2. Đối với các ngành hoặc chuyên ngành không đủ điều kiện mở lớp đào tạo theo phương thức quy định tại khoản 1 Điều này, giáo viên chủ động đăng ký dự tuyển với cơ sở đào tạo công lập theo quy chế tuyển sinh do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành."
Về kế hoạch thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên, Nghị định số 311/2025/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung theo hướng đơn giản hóa quy trình; quy định cụ thể, rõ ràng hơn về chủ thể xây dựng và nhận kế hoạch, căn cứ xây dựng, thời hạn ban hành, phương thức gửi kế hoạch đối với 2 loại kế hoạch: 5 năm (2026–2030) và hằng năm. Cụ thể:
"Điều 8. Kế hoạch thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên
1. Kế hoạch 5 năm theo lộ trình 2026 - 2030 theo Mẫu số 1 ban hành kèm theo Nghị định này
a) Đơn vị xây dựng kế hoạch: Bộ Giáo dục và Đào tạo;
b) Đơn vị nhận kế hoạch: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
c) Căn cứ xây dựng kế hoạch: Số lượng giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở thuộc đối tượng nâng trình độ chuẩn được đào tạo tại thời điểm xây dựng kế hoạch; chỉ tiêu cần đạt quy định tại Điều 4, Điều 5 và Điều 6 Nghị định này;
d) Thời hạn ban hành kế hoạch: Kế hoạch 5 năm theo lộ trình 2026 – 2030 được ban hành trước ngày 31 tháng 12 năm 2025;
đ) Phương thức gửi kế hoạch: Kế hoạch được thể hiện bằng văn bản điện tử bảo đảm quy định của pháp luật và được gửi về đơn vị nhận kể hoạch qua hệ thống quản lý tài liệu điện tử.
2. Kế hoạch hằng năm thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở (sau đây gọi là kế hoạch thực hiện hằng năm) theo Mẫu số 2 ban hành kèm theo Nghị định này
a) Đơn vị xây dựng kế hoạch: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
b) Đơn vị nhận kế hoạch: Bộ Giáo dục và Đào tạo; cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông có giáo viên đăng ký đào tạo nâng trình độ chuẩn; cơ sở đào tạo được giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng và các đơn vị có liên quan;
c) Căn cứ xây dựng kế hoạch: Nhu cầu đào tạo nâng trình độ chuẩn của cơ sở giáo dục; chỉ tiêu cần đạt quy định tại Điều 4, Điều 5 và Điều 6 Nghị định này;
d) Thời hạn ban hành kế hoạch: Trước ngày 15 tháng 12 của năm trước liền kề với năm thực hiện;
đ) Phương thức gửi kế hoạch: Kế hoạch được thể hiện bằng văn bản điện tử bảo đảm quy định của pháp luật và được gửi về đơn vị nhận kế hoạch qua hệ thống quản lý tài liệu điện tử."
Về kinh phí thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên (Điều 9), Nghị định số 311/2025/NĐ-CP đã bổ sung trách nhiệm lập dự toán kinh phí của cơ sở giáo dục và quy định thanh toán kinh phí đào tạo cho những giáo viên đã tự đi học các ngành hoặc chuyên ngành không đủ điều kiện mở lớp đào tạo sau khi được cấp bằng.
"Điều 9. Kinh phí thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên
1. Kinh phí thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên (công lập, dân lập, tư thục) do ngân sách địa phương bảo đảm theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các nguồn kinh phí khác theo quy định của pháp luật.
2. Việc lập dự toán, phân bổ, giao dự toán, thực hiện dự toán, quyết toán kinh phí thực hiện theo quy định hiện hành về giao nhiệm vụ, đặt hàng sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên và các văn bản pháp luật có liên quan.
3. Trường hợp giáo viên được cử đi đào tạo nâng trình độ chuẩn quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định này, cơ sở giáo dục nơi giáo viên công tác có trách nhiệm lập dự toán kinh phí, gửi cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kinh phí theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước và thực hiện chi trả cho giáo viên kinh phí đào tạo bằng mức thu học phí theo hóa đơn hoặc chứng từ hợp pháp của cơ sở đào tạo sau khi được cấp bằng tốt nghiệp.
4. Các cơ sở giáo dục dân lập, tư thục bảo đảm kinh phí để chi trả lương và các chế độ, phụ cấp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 10 Nghị định này cho giáo viên được cử đi đào tạo nâng trình độ chuẩn."
Ngoài ra, Nghị định còn sửa đổi, bổ sung quyền của giáo viên tham gia đào tạo nâng trình độ chuẩn để bảo đảm quyền được thanh toán học phí đào tạo nâng trình độ chuẩn; sửa đổi quy định chế độ báo cáo để bảo đảm tính logic, tuân thủ quy định của Chính phủ tại Nghị định số 09/2019/NĐ-CP ngày 24/01/2019 quy định về chế độ báo cáo của cơ quan hành chính nhà nước.
Đồng thời, Nghị định cũng bổ sung các mẫu kế hoạch thực hiện lộ trình; báo cáo kết quả đào tạo và nhu cầu đào tạo nâng trình độ chuẩn.
Chính phủ ban hành Nghị định số 312/2025/NĐ-CP quy định cơ chế quản lý tài chính dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư và cơ chế thanh toán, quyết toán đối với dự án áp dụng loại hợp đồng BT.

Nghị định số 312/2025/NĐ-CP quy định cơ chế quản lý tài chính dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Nghị định quy định phương án tài chính của dự án ppp phải phản ánh đầy đủ các khoản chi phí và nguồn thu hợp pháp theo quy định trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành của dự án ppp, trừ trường hợp pháp luật khác có quy định.
Doanh thu, chi phí của dự án ppp phải được quản lý, theo dõi, kê khai, hạch toán độc lập với hoạt động kinh doanh khác của nhà đầu tư (trường hợp không thành lập doanh nghiệp dự án), hoạt động kinh doanh khác ngoài phạm vi hợp đồng dự án ppp của doanh nghiệp dự án ppp theo quy định tại điểm b khoản 22 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Hải quan, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công số 90/2025/QH15 (Luật số 90/2025/QH15).
Phần vốn nhà nước sử dụng trong dự án ppp theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 69 Luật ppp không tính vào phương án thu hồi vốn và lợi nhuận của nhà đầu tư.
Tiền thuế giá trị gia tăng tương ứng phần vốn nhà nước theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 69 Luật ppp không tính vào phương án thu hồi vốn và lợi nhuận của nhà đầu tư.
Doanh thu để tính toán phương án tài chính là toàn bộ doanh thu từ việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ công của dự án ppp, doanh thu khác được quy định tại hợp đồng dự án ppp.
Các chỉ tiêu tài chính của phương án tài chính được tính toán trên cơ sở các dòng tiền sau thuế được chiết khấu theo tỷ suất chiết khấu bình quân gia quyền của lãi suất huy động các nguồn vốn và tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư.
Đồng tiền sử dụng trong phương án tài chính là Việt Nam Đồng.
Phương án tài chính trong Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, Báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc Báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng gồm các nội dung sau:
- Sơ bộ tổng mức đầu tư, tổng mức đầu tư của dự án ppp;
- Nguồn vốn thực hiện dự án PPP;
- Dự kiến các khoản chi phí trong thời gian vận hành của dự án;
- Phương án thu hồi vốn đầu tư, lợi nhuận của nhà đầu tư đối với nhóm dự án áp dụng cơ chế thu phí trực tiếp từ người sử dụng hoặc tổ chức bao tiêu sản phẩm, dịch vụ công hoặc áp dụng hình thức kinh doanh khác theo quy định của pháp luật;
- Phương án thu hồi vốn đầu tư, lợi nhuận của nhà đầu tư đối với nhóm dự án áp dụng cơ chế Nhà nước thanh toán trên cơ sở chất lượng sản phẩm, dịch vụ công (dự án áp dụng loại hợp đồng BTL, hợp đồng BLT);
- Phương án thanh toán dự án áp dụng loại hợp đồng BT thanh toán bằng ngân sách nhà nước;
- Các khoản nộp ngân sách nhà nước (nếu có) đối với dự án ppp thực hiện theo hình thức hợp đồng O&M;
- Các chỉ tiêu phân tích, đánh giá tính khả thi của phương án tài chính (không áp dụng cho dự án áp dụng loại hợp đồng BT);
- Các đề xuất ưu đãi, bảo đảm (nếu có).
Nghị định số 312/2025/NĐ-CP quy định rõ về: Nguồn vốn thực hiện dự án ppp của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án ppp; quản lý, sử dụng, thanh toán vốn nhà nước trong dự án ppp; quyết toán vốn đầu tư công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng dự án ppp...
Về nguồn vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư, Nghị định quy định nhà đầu tư chịu trách nhiệm góp vốn chủ sở hữu tham gia dự án ppp theo quy định tại Điều 77 Luật ppp. Trong quá trình triển khai hợp đồng dự án ppp có sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án ppp huy động mà không làm thay đổi chủ trương đầu tư, mang lại hiệu quả cao hơn về tài chính, kinh tế - xã hội, các bên trong hợp đồng dự án ppp được xem xét, sửa đổi quy định về cơ cấu nguồn vốn trong hợp đồng dự án ppp.
Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư (trừ dự án BT) được quy định như sau:
Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư tính toán trong giai đoạn lập, thẩm định, phê duyệt Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, Báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc Báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng được xác định trên cơ sở khung tỷ lệ lợi nhuận của dự án ppp do bộ, ngành ban hành và tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các dự án ppp tương tự khác về loại hợp đồng dự án ppp, lĩnh vực, quy mô, tính chất dự án đã hoặc đang thực hiện (nếu có).
Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu được xác định theo kết quả đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Trường hợp dự án ppp áp dụng hình thức chỉ định nhà đầu tư hoặc lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt để lựa chọn nhà đầu tư, cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án quyết định tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu trong phương án tài chính của dự án ppp.
Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư được tính từ thời điểm dự án được cấp có thẩm quyền cho phép đi vào vận hành, khai thác.
Nghị định nêu rõ, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư thực hiện dự án BT thanh toán bằng ngân sách nhà nước thực hiện theo quy định tại Chương VI Nghị định này.
Nghị định quy định vốn nhà nước trong dự án ppp được giải ngân cho doanh nghiệp dự án ppp hoặc nhà đầu tư (trường hợp không thành lập doanh nghiệp dự án) khi cấp có thẩm quyền giao kế hoạch vốn, giao dự toán ngân sách theo quy định của pháp luật.
Vốn nhà nước giải ngân cho doanh nghiệp dự án ppp, nhà đầu tư không được vượt số vốn nhà nước trong dự án ppp (hoặc vốn nhà nước điều chỉnh) đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và được quy định trong hợp đồng dự án ppp. Tổng số vốn nhà nước thanh toán cho doanh nghiệp dự án ppp, nhà đầu tư trong năm không được vượt kế hoạch vốn năm, dự toán ngân sách năm bố trí cho dự án ppp được giao.
Vốn đầu tư công hỗ trợ xây dựng hạng mục công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng quy định tại điểm b khoản 5 Điều 70 Luật ppp chỉ được thanh toán cho giá trị khối lượng công việc hoàn thành đã được Cơ quan được giao quản lý vốn nhà nước trong dự án ppp xác nhận và theo tỷ lệ các nguồn vốn, giá trị, tiến độ, điều kiện thanh toán quy định tại hợp đồng dự án ppp, phù hợp với kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn, hằng năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Vốn nhà nước được thanh toán cho doanh nghiệp dự án ppp, nhà đầu tư cung cấp sản phẩm, dịch vụ công theo hợp đồng BTL, hợp đồng BLT kể từ thời điểm sản phẩm, dịch vụ công được cung cấp theo thoả thuận trong hợp đồng dự án ppp. Giá trị thanh toán định kỳ trên cơ sở khối lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ công thực tế mà dự án ppp cung cấp theo quy định tại hợp đồng dự án ppp, phù hợp với kế hoạch vốn đầu tư công hằng năm, dự toán chi thường xuyên được cấp có thẩm quyền phê duyệt, doanh thu từ dự án ppp (nếu có).
Cơ quan được giao quản lý vốn nhà nước trong dự án ppp chịu trách nhiệm trước pháp luật và người có thẩm quyền về việc xác định doanh nghiệp dự án ppp, nhà đầu tư đã đảm bảo các điều kiện giải ngân theo quy định tại Nghị định này và quy định tại hợp đồng dự án PPP; giá trị đề nghị thanh toán, giám sát và xác định tỷ lệ phần vốn chủ sở hữu đã giải ngân theo quy định của hợp đồng dự án PPP; tính hợp pháp của các tài liệu trong hồ sơ cung cấp cho cơ quan thanh toán và các cơ quan chức năng.
Thời hạn thanh toán vốn nhà nước hằng năm trong dự án ppp thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, pháp luật về đầu tư công.
Thời gian thanh toán của cơ quan thanh toán tối đa không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thanh toán của Cơ quan được giao quản lý vốn nhà nước trong dự án ppp theo quy định...
Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng ký Quyết định số 2663/QĐ-TTg ngày 08/12/2025 ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Năng lượng nguyên tử số 94/2025/QH15.

Đẩy mạnh việc triển khai thi hành Luật Năng lượng nguyên tử, bảo đảm thống nhất, hiệu quả.
Mục đích của Kế hoạch nhằm xác định cụ thể các nội dung công việc, thời hạn, tiến độ hoàn thành và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc triển khai thi hành Luật Năng lượng nguyên tử bảo đảm kịp thời, thống nhất và hiệu quả; phân định rõ trách nhiệm của cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp trong việc thực hiện các hoạt động triển khai thi hành Luật Năng lượng nguyên tử.
Đồng thời, tăng cường nhận thức, ý thức trách nhiệm và sự phối hợp của các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc triển khai thi hành Luật Năng lượng nguyên tử.
Kế hoạch đưa ra 05 nhiệm vụ chính, giao các bộ, ngành, địa phương triển khai cụ thể như sau:
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng 04 Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết, biện pháp để tổ chức thi hành Luật Năng lượng nguyên tử thực hiện theo Quyết định số 1526/QĐ-TTg ngày 14/7/2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 9; trình Chính phủ trong Quý IV/2025.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố và các cơ quan, tổ chức có liên quan tổ chức hội nghị tập huấn chuyên sâu cho cán bộ, công chức ở địa phương làm công tác giải quyết thủ tục hành chính, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ở địa phương; hội nghị phổ biến Luật Năng lượng nguyên tử và các văn bản hướng dẫn thi hành cho tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Đồng thời, thường xuyên phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, các phương tiện thông tin đại chúng khác ở trung ương và địa phương, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Ngoài ra, Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì biên soạn cẩm nang hướng dẫn nghiệp vụ (bản in và bản điện tử) cho cán bộ, công chức làm công tác quản lý trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Các bộ, cơ quan ngang bộ tổ chức rà soát, xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với lộ trình sau khi các Nghị định của Chính phủ được ban hành, bảo đảm đồng bộ với việc triển khai thi hành Luật.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ quan, tổ chức có liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, theo dõi tình hình tổ chức thi hành Luật Năng lượng nguyên tử và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Năng lượng nguyên tử.
Các bộ quản lý ngành, lĩnh vực theo chức năng, nhiệm vụ được giao thường xuyên hướng dẫn áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành Luật Năng lượng nguyên tử; tổ chức tiếp nhận và xử lý các kiến nghị, đề xuất của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện Luật và các văn bản hướng dẫn; tổ chức rà soát, đánh giá và cập nhật hệ thống cơ sở dữ liệu liên quan. Bảo đảm các điều kiện thi hành theo quy định tại Điều 59 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 80/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm chủ trì và phối hợp với các bộ, ngành, địa phương rà soát, hướng dẫn và xử lý kiến nghị về văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến thi hành Luật Năng lượng nguyên tử; theo dõi, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện và định kỳ hàng năm hoặc theo yêu cầu tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ việc thực hiện Kế hoạch này.
Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo số 678/TB-VPCP ngày 9/12/2025 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng tại Diễn đàn Kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2025.

Chính phủ tạo mọi điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển công bằng, bình đẳng và bền vững.
Thông báo nêu, thể chế, cơ chế, chính sách đã tạo hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, kinh tế tư nhân, doanh nghiệp và tăng cường liên kết giữa các khu vực kinh tế ngày càng hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Luật Hợp tác xã năm 2023 đã bổ sung các quy định hướng đến thúc đẩy hợp tác xã liên kết với các thành phần kinh tế khác. Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa các chủ trương, chính sách hỗ trợ hợp tác xã theo hướng thúc đẩy liên kết sản xuất, ưu tiên vốn vay cho các hợp tác xã tham gia chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao, gắn với nông nghiệp xanh, sạch.
Trong thời gian qua, kinh tế tập thể, hợp tác xã và doanh nghiệp đã có bước phát triển lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng: Đến nay, cả nước có hơn 35 nghìn hợp tác xã với gần 6 triệu thành viên tham gia; có 164 liên hiệp hợp tác xã với hơn 1 nghìn hợp tác xã thành viên; gần 66 nghìn tổ hợp tác với hơn 1 triệu thành viên; đồng thời có khoảng 1 triệu doanh nghiệp đang hoạt động (tăng 20% so với năm 2020); đã có khoảng 4,7 nghìn hợp tác xã tham gia liên kết chuỗi giá trị và 2,6 nghìn hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao.
Trên cả nước đã có gần 3 nghìn dự án, kế hoạch liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp trong nhiều ngành, lĩnh vực được phê duyệt, triển khai, đa dạng về hình thức liên kết.
Hoạt động liên kết giữa doanh nghiệp và hợp tác xã đã góp phần khơi thông những tiềm năng, phát triển thị trường ổn định, bền vững cho các sản phẩm chủ lực quốc gia, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp đã xuất hiện nhiều mô hình liên kết hiệu quả cao.
Các dự án liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp bước đầu đã thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội. Giai đoạn 2018 - 2025 cả nước đã huy động được nguồn vốn trên 15,2 nghìn tỷ đồng thực hiện các dự án, kế hoạch liên kết, trong đó ngân sách nhà nước gần 3,2 nghìn tỷ đồng (khoảng 21%), vốn đối ứng của các doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân khoảng 79%.
Bên cạnh đó, việc phát triển kinh tế tập thể, hợp tác vẫn còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc như: Cơ chế, chính sách hỗ trợ liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp, đặc biệt là ở địa phương chưa gắn với đẩy mạnh chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ. Hiện còn ít các hợp tác xã và doanh nghiệp tham gia liên kết chuỗi giá trị (khoảng 2,4 nghìn hợp tác xã và trên 1,3 nghìn doanh nghiệp), chủ yếu liên kết trong lĩnh vực nông nghiệp, chưa có nhiều liên kết trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ, công nghiệp.
Nguồn lực tài chính phục vụ cho thực hiện chính sách hỗ trợ liên kết còn hạn chế, ngân sách trung ương chưa bố trí nguồn riêng cho phát triển liên kết hợp tác xã với doanh nghiệp, chủ yếu lồng ghép trong các chương trình khác.
Năng lực của các hợp tác xã vẫn là điểm yếu lớn, phần lớn hợp tác xã có quy mô nhỏ, năng lực quản lý, sản xuất còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu liên kết theo chuỗi giá trị; thiếu đội ngũ cán bộ có năng lực, chuyên môn, hiểu biết sâu về xây dựng và vận hành chuỗi liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp.
Công tác tuyên truyền, hướng dẫn chính sách trong thực hiện liên kết chưa được quan tâm đúng mức. Các mô hình liên kết hiệu quả chưa được phổ biến một cách sâu rộng.
Phó Thủ tướng nhận định, trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực dự báo vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp và khó lường. Trong bối cảnh đó, cả nước đang nỗ lực để hoàn thành thắng lợi 2 mục tiêu 100 năm, trong đó phấn đấu tăng trưởng trên 8% năm 2025 và phải đạt tăng trưởng hai con số trong những năm tiếp theo; phấn đấu phát triển nhanh, bền vững, vượt qua bẫy thu nhập trung bình, sớm đạt mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược nêu trên cần phải xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; đặc biệt, phải phát huy và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực của xã hội để thúc đẩy mạnh mẽ liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp nhằm lấp đầy các khoảng trống mà một mình khu vực kinh tế tư nhân hay kinh tế nhà nước không thể giải quyết và đáp ứng được. Trong quá trình này đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng, tham gia tích cực của các tầng lớp Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, cùng với sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, trong đó, liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng, là một xu thế tất yếu, mang tính chiến lược đối với ngành nông nghiệp trong giai đoạn tới đây.
Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã theo mô hình xanh, số, tuần hoàn và thúc đẩy liên kết với các thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp vừa là yêu cầu thực tiễn khách quan, vừa là giải pháp mang tính chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội với phương châm: "Nhà nước kiến tạo - Doanh nghiệp tiên phong - Hợp tác xã là hạt nhân - Nông dân, người lao động là chủ thể - Nhà khoa học tư vấn, đồng hành - Tổ chức tín dụng hỗ trợ - Xây dựng liên kết bền vững, hiệu quả".
Để thực hiện được mục tiêu trên, Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan rà soát, sửa đổi, bổ sung ngay các quy định hiện hành không còn phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong bối cảnh mới; rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định để thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân, trong đó cụ thể hóa các quy định về hỗ trợ doanh nghiệp tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; xây dựng khung chính sách phát triển chuỗi liên kết, chuỗi giá trị.
Đồng thời, khẩn trương rà soát kỹ lưỡng, hoàn thiện dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17 tháng 4 năm 2018 về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn với những chính sách mang tính đột phá, nguồn lực đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; trình Chính phủ trong tháng 12 năm 2025; rà soát Nghị định số 113/2024/NĐ-CP ngày 12 tháng 9 năm 2024 quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã để kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, thúc đẩy phát triển hiệu quả các hợp tác xã.
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn vay ưu đãi từ Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó ưu tiên các doanh nghiệp tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị.
Khẩn trương hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành các chương trình, đề án, kế hoạch liên quan đến phát triển kinh tế tập thể trong giai đoạn 2026 - 2030. Nghiên cứu đề xuất cơ chế, nguồn lực tương xứng, trong đó tăng quy mô hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong thời gian tới.
Xây dựng, triển khai ngay chương trình hỗ trợ chuyển đổi số cho các hợp tác xã trong năm 2026 nhằm nâng cao năng lực, sức cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu liên kết với các doanh nghiệp và tiếp tục tổ chức hiệu quả Diễn đàn kinh tế hợp tác, hợp tác xã, trở thành kênh đối thoại chính sách thường xuyên, kết nối hợp tác xã với doanh nghiệp, nhà khoa học, tổ chức tài chính, các đối tác trong nước và quốc tế.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan khẩn trương trình Chính phủ về Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05 tháng 7 năm 2018 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, trong đó cần tập trung: đổi mới, đơn giản hóa và quy định rõ các tiêu chí, trình tự, thủ tục, thẩm quyền phê duyệt; tăng cường phân cấp phân quyền cho địa phương trong quy trình xác nhận, phê duyệt dự án, kế hoạch liên kết; quy định rõ cơ chế phân phối lợi ích hài hòa, hợp lý và cơ chế bảo vệ quyền lợi của các tác nhân trong chuỗi giá trị; bổ sung các quy định hỗ trợ hình thành và vận hành chuỗi giá trị xanh, chuỗi giá trị số, gắn với truy xuất nguồn gốc và giảm phát thải, tín chỉ các-bon, quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế; cập nhật, bổ sung danh mục các nội dung ưu tiên để hỗ trợ phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn của từng vùng.
Xây dựng chương trình tổng thể về đào tạo nông dân số, nông dân chuyên nghiệp, đội ngũ quản trị hợp tác xã hiện đại, góp phần hình thành lực lượng lao động nông nghiệp có tri thức, kỹ năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; xây dựng cơ chế đào tạo nghề, phát triển đội ngũ xã viên, nông dân có chất lượng, năng lực chuyên môn cao về xây dựng và vận hành chuỗi liên kết về nông sản.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu xây dựng cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác xã chủ trì các dự án liên kết chuỗi được tiếp cận các gói tín dụng thương mại, tín dụng xanh, tín dụng ưu đãi.
Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng chương trình hỗ trợ các hợp tác xã trong công tác chuyển giao công nghệ.
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chủ trì tổng hợp các kiến nghị của các hợp tác xã, phát huy hiệu quả vai trò cầu nối để triển khai và tăng khả năng tiếp cận chính sách cho các hợp tác xã; xây dựng chương trình hỗ trợ cụ thể phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, hình thành và phát triển các chuỗi liên kết; đồng thời, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã được đào tạo chuyên nghiệp, có kiến thức về kinh tế, tài chính và kinh doanh. Xây dựng đội ngũ cán bộ của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đủ năng lực đáp ứng yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ tư vấn, hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa phát huy vai trò cầu nối thúc đẩy doanh nghiệp liên kết hiệu quả với hợp tác xã, hình thành chuỗi giá trị bền vững.
Các tỉnh, thành phố chủ động ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp, bảo đảm phương châm "6 rõ: rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ kết quả".
Đối với cộng đồng doanh nghiệp phải phát huy vai trò tiên phong trong thực hiện liên kết với hợp tác xã, đặc biệt trong việc hình thành các chuỗi sản xuất, cung ứng, đóng góp thiết thực trong phát triển kinh tế đất nước, thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới (kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ…); tiên phong trong ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ mới, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp.
Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã phải phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường, nâng cao năng lực quản trị, sản xuất, mở rộng hợp tác với các khu vực kinh tế khác, nhất là với doanh nghiệp; tăng cường học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong nước, quốc tế, không ngừng nỗ lực tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị.
Phó Thủ tướng khẳng định: Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, với tinh thần chia sẻ và hợp tác là nền tảng để xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường, gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Trong quá trình đó, cần phải coi hợp tác xã là đối tác kinh doanh bình đẳng, đẩy mạnh liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp không chỉ là một giải pháp kinh tế, mà còn là động lực nâng cao đời sống người dân, ổn định xã hội, phát triển kinh tế - xã hội bền vững; cần có tầm nhìn xa hơn, chiến lược hơn, hành động quyết liệt hơn để các khu vực kinh tế không vận hành một cách rời rạc, mà cùng hợp lực, phát triển nhanh, bền vững, hội tụ thành sức mạnh tổng hợp đưa đất nước vươn xa trong kỷ nguyên mới. Chính phủ luôn khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển công bằng, bình đẳng và bền vững./.