Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau:
Về việc xác định người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH một thành viên là cá nhân, Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 không quy định cụ thể về chức danh người đại diện theo pháp luật; không quy định chủ sở hữu đương nhiên là người đại diện theo pháp luật.
Chủ sở hữu công ty có quyền và trách nhiệm quyết định chức danh người đại diện theo pháp luật của công ty và ghi vào điều lệ công ty căn cứ các quy định sau đây:
Khoản 1 và Khoản 2, Điều 12 Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 quy định:
"1. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
2. Công ty TNHH và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Nếu công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật thì Điều lệ công ty quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật. Trường hợp việc phân chia quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật chưa được quy định rõ trong Điều lệ công ty thì mỗi người đại diện theo pháp luật của công ty đều là đại diện đủ thẩm quyền của doanh nghiệp trước bên thứ ba; tất cả người đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan".
Theo quy định tại Điểm g, Khoản 2, Điều 24 Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14, Điều lệ công ty quy định về "số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; phân chia quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong trường hợp công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật".
Theo quy định Khoản 2, Điều 76 Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14, chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên là cá nhân "quyết định nội dung Điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty".
Về việc thay đổi chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên là cá nhân, Khoản 5, Điều 77 Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 quy định:
"5. Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác; trường hợp rút một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ đã góp ra khỏi công ty dưới hình thức khác thì chủ sở hữu công ty và cá nhân, tổ chức có liên quan phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty".
Theo quy định tại Điều 53 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 4/1/2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, trường hợp thay đổi chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên do tặng cho toàn bộ phần vốn góp, thì người được tặng cho nộp hồ sơ đăng ký thay đổi chủ sở hữu công ty, trong đó bao gồm hợp đồng tặng cho phần vốn góp.
Căn cứ các quy định nêu trên về công ty TNHH một thành viên là cá nhân, việc chủ sở hữu tặng cho toàn bộ vốn góp sẽ dẫn tới thay đổi chủ sở hữu công ty và thay đổi người đại diện theo pháp luật (trong trường hợp điều lệ quy định cá nhân chủ sở hữu là chủ tịch công ty đồng thời là người đại diện theo pháp luật).
Tuy vậy, việc thay đổi chủ sở hữu và người đại diện theo pháp luật không làm thay đổi các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân công ty, trong đó có các quyền và nghĩa vụ đối với các hợp đồng thi công trình xây dựng mà pháp nhân công ty đã ký với các đối tác, khách hàng trước khi thay đổi chủ sở hữu. Chi tiết về nội dung này, đề nghị ông tham vấn ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực pháp luật dân sự và hợp đồng kinh tế.
Chinhphu.vn