• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Cư dân Hà Nội thuở sơ khai

(Chinhphu.vn) – Sau hàng vạn năm, qua mấy lần biển tiến, lui, trên vùng đất Hà Nội đã xuất hiện những dấu vết hoạt động của con người.

02/01/2010 10:31

 

>> Phần 2: Thành phố sông hồ

>> Phần 1: Hà Nội thuở khai thiên lập địa

Thủ đô Hà Nội xưa

Loài người xuất hiện vào đầu kỷ địa chất Thứ tư, cách nay khoảng bốn triệu năm. Bấy giờ toàn vùng Hà Nội được nâng  lên, có xâm thực và bao mòn, đồng thời cũng được bồi đắp bởi trầm tích của sông suối, để tạo nên một đồng bằng nằm sâu dưới bề mặt đồng bằng hiện nay 40 - 50m, phủ đầy rừng rậm với rất nhiều loại động vật nhiệt đới. Sau hàng vạn năm, qua mấy lần biển tiến, lui, trên vùng đất Hà Nội đã xuất hiện những dấu vết hoạt động của con người.

Những dấu chân đầu tiên

Năm 1972, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy ở cánh đồng Đông Thành, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, những viên đá cuội có dấu vết bàn tay con người ghè đẽo; nhìn chung còn khá thô sơ, hình loại chưa ổn định, được chế tác bằng cuội quacdit, có sẵn ở thềm sông cổ. Từ năm 1968, người ta đã tìm thấy những công cụ bằng đá cuội như thế của ngưới nguyên thủy trên một địa bàn rộng lớn, từ Lào Cai đến Hà Tĩnh. Giới chuyên môn gọi đó là văn hóa Sơn Vi, thuộc cuối thời đại Đá cũ, cách nay từ 2 vạn năm đến hơn 1 vạn năm.

Thế rồi, từ những dải núi cao, băng tan, dồn một khối lượng nước khổng lồ xuồng các đại dương. Vào đầu thế Toàn tân, cách nay một - hai vạn năm, lại một thời biển tiến. Gần một nửa diện tích của mảng lục địa Đông Nam Á bị nhấn chìm xuống dưới mực nước biển. Vịnh biển ăn sâu vào đồng bằng, trong đó có vùng Hà Nội. Biển dâng, lũ chậm thoát, đầm lầy phát triển. Đất còn lại ở gần biển thì bị nhiễm mặn, nguồn thực vật ít đi, các loại động vật lớn lùi sâu vào lục địa. Con người cũng lùi lên, ở hang động núi đá vôi hay vùng thềm cao. Vùng châu thổ Bắc Bộ ngày nay không có người ở trong suốt thời đại Đá mới, cách nay từ khoản 1 vạn năm đến trên dưới 4.000 năm.

Cách nay 4.000 năm, bắt đầu thời kỳ biển lui. Khu vực Hà Nội lúc đầu là các vũng đọng, sau đó được phù sa các sông bồi đắp dần thành miền rừng rậm, đầm lầy. Từ miền chân núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, các nhóm cư dân khác nhau đổ về quanh vùng trũng Hà Nội, các khu vực đất cao châu thổ về quanh vùng trũng sông Hồng. Từ đây lại sôi động cuộc sống con người. Đó là thời kỳ huyền thoại của những người khổng lồ - ông khổng lồ giết thuồng luồng ở bến làng Xuân Tảo; ông Đổng khổng lồ để lại vết chân vừa thày năm gang ở làng Gióng; hình ảnh người anh hùng Lạc Long Quân từ biển  tới, dâng nước vây bắt cáo chín đuôi ẩn náu ở miền rừng Hà Nội, biến hang ổ của nó thành đầm Xác Cáo, tức hồ Tây.

Các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra nhiều di tích nối tiếp nhau tại các gò đồi và các dải đất cao ven sông quanh khu vực Hà Nội, hình thành một chuỗi lịch sử liên tục từ đầu thời đại Đồ đồng đến đầu thời đại Đồ sắt, trên chặng đường hai nghìn năm từ đầu Công nguyên trở về trước.

Dựa vào kết quả thu được qua các cuộc khai quật khảo cổ học, họ đã phác họa phổ hệ các giai đoạn phát triển từ thấp lên cao: a) giai đoạn Phùng Nguyên hay thời đại Đồng thau, trong khoảng 4.000 - 3.500 năm trước; b) giai đoạn Đồng Đậu hay giữa thời đại Đồng thau, trong khoảng 3.500 - 3.000 năm trước; c) giai đoạn Gò Mun hay cuối thời đại Đồng thau, trong khoảng nửa đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên; d) giai đoạn Đông Sơn hay đầu thời đại Đồ sắt, trong khoảng nửa cuối thiên niên kỷ I trước Công nguyên.

Cuộc sống thuở sơ khai

Tổ tiên chúng ta từ vùng cao tiến xuống với biểu tượng thần thoại mẹ Âu Cơ và từ vùng thấp ven biển tiến vào với biểu tượng cha Lạc Long Quân, đến định cư ở trung châu Bắc Bộ, tức vùng Hà Nội ngày nay. Họ là những cư dân nông nghiệp, xây dựng xóm làng cổ trên những doi đất cao ven các sông hay ven bờ đầm hồ. Tầng văn hóa dưới nền đất thổ cư của họ có nhiều than tro, chứa đầy mảnh gốm và mảnh công cụ, dày vài - ba mét và rộng tới hàng vạn mét vuông, là chứng cứ cho lối sống định cư lâu dài. Họ dùng rìu đá, rìu đồng để khai phá rừng, lập làng, làm ruộng. Để thích ứng với mọi địa hình, các cư dân Việt cổ đã phải chọn giống cây và canh tác theo thời vụ. Do đó, ngay từ bấy giờ đã xuất hiện nền nông nghiệp đa canh với các ngành trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt.

Từ các khu vực chân núi có nương rẫy xuống vùng Hà Nội, người Việt cổ đã chuyển nương rẫy thành vườn để trồng cây ăn quả (đã tìm thấy dấu vết của các hạt na, trám, nhãn) và rau củ; nhưng công việc chủ yếu của họ vẫn là trồng lúa ở các chân ruộng. Người ta đã tìm thấy nhiều hạt gạo cháy và cả vỏ trấu trong các di chỉ thời đại Đồ đồng và Đồ sắt sớm ở các khu ruộng cao; từ Lỗ Giao (Đông Anh) đến chân núi Sóc (Sóc Sơn), những chuôm đó sau này được gọi là vết chân ngựa Gióng.

Ngoài nước mưa, người cổ đại còn dựa vào các con sông và các nhánh lạch chằng chịt mà dẫn nước vào ruộng. Từ cuối thời đại Đồng thau, do sức ép về dân số, người Việt cổ đã nhất loạt tới cư trú quanh các vùng trũng và đã có thể từ việc trồng lúa ngoi trong mùa mưa chuyển sang việc trồng lúa chiêm chịu hạn. Cổ sử Trung Hoa chép: "Lúa Giao Chỉ chín hai mùa". Trên đường di thực từ miền trung du xuống đồng bằng của người Việt cổ, chính ở khu vực quanh Hà Nội đã thể nghiệm thành công bước quá độ từ mô hình nông nghiệp lúa nước chân núi đến mô hình nông nghiệp lúa nước đồng bằng, nghĩa là từ trồng một vụ lúa sang trồng hai vụ lúa, từ vùng đất nghèo sang vùng đất có độ phì lớn và có thể thâm canh.

Chăn nuôi gắn liền với làm ruộng. Người ta tìm thấy nhiều xương lợn, xương trâu, bò ở các di chỉ Đình Chàng, Đường Mây; tượng đầu bò bằng đất nung ở Tiên Hội; đầu trâu bằng đá ở Đình Chàng; xương voi ở Đồng Vông, gò Chùa Thông, Đình Chàng; hình chó săn hươu trên rìu đồng lưỡi xéo ở Trung Màu.

Thiên nhiên Hà Nội thưở ấy còn nhiều phần hoang dại; rừng rậm, đầm lầy và sông ngòi cuồn cuộn tạo điều kiện cho con người săn bắt. Nghề chài lưới phát triển mạnh. Các di chỉ dọc sông Ngũ Huyện - Đồng Vông, Đường Thụt, Xuân Kiều (Đông Anh) chứa đầy chì lưới bằng đá và bằng đất nung, lưỡi câu đồng được tìm thấy khá nhiều ở các di chỉ Bãi Mèn, Đình Chàng (Đông Anh), gò Chùa Thông (Thanh Trì). Bên cạnh nghề cá là nghề săn; cạnh xương gia súc là xương thú rừng - lợn lòi, hươu, hoẵng, cầy, cáo, hổ... Mũi tên đồng được tìm thấy ở các di chỉ Đình Chàng, Đường Mây, Tiên Hội.

Nghề nông phát triển kéo theo các ngành nghề thủ công cũng phát triển. Kỹ nghệ chế tác đá đạt tới trình độ cao với cưa, mài, khoan, tiện, làm ra nhiều loại công cụ và đồ dùng, đồ trang sức. Các nghề thủ công như đan lát, xe chỉ, dệt vải, gốm và luyện kim đều phát triển. Gốm Đồng Vông có nhiều loại hình - bát, đĩa, nồi, vò, chậu, chuốt bằng bàn xoay; gốm Đình Chàng, gò Chùa Thông vừa cứng như sành, vừa tròn đều đặn. Những tảng xỉ đồng lớn tìm thấy ở di chỉ Đồng Vông là chứng cứ về sự phát triển của nghề luyện kim. Tiếp theo cuộc cách mạng nông nghiệp là cuộc cách mạng luyện kim đã nảy sinh tại chỗ.

Đời sống vật chất bước đầu ổn định thì đời sống tinh thần cũng phong phú thêm. Cảm nhận về cái đẹp được biểu hiện qua đồ trang sức - khuyên tai, vòng tay, chuỗi hạt - được chế tác tinh tế. Đồ gốm phủ đầy hoa văn - văn thừng, văn chải, văn khắc vạch - được bố trí thành các dải ngang, dọc uyển chuyển, bố cục hài hòa. Người Việt cổ tin tưởng và sùng bái các lực lượng siêu nhiên, thần thánh hóa Mặt trời, Mặt trăng và mây mưa, sấm sét.

Nguyễn Văn Tân

(trích từ sách Lược sử Hà Nội do chính tác giả biên soạn)