• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Đại học vùng - Trụ cột đổi mới giáo dục và động lực phát triển vùng miền

(Chinhphu.vn) - Ra đời từ 1994, các đại học vùng đã trở thành trung tâm đào tạo và nghiên cứu đa ngành, kết nối tri thức - doanh nghiệp - địa phương, đóng vai trò then chốt trong đào tạo nhân lực chất lượng cao và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, góp phần hiện thực hóa mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập cao vào 2045.

16/12/2025 12:05
Đại học vùng - Trụ cột đổi mới giáo dục và động lực phát triển vùng miền- Ảnh 1.

GS.TSKH Bùi Văn Ga khẳng định mô hình đại học vùng đã chứng minh tính ưu việt và phù hợp với thực tiễn Việt Nam

Sau khi Quốc hội thông qua Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) ngày 10/12, vấn đề tổ chức lại hệ thống giáo dục đại học theo hướng tinh gọn, hiệu quả và tăng cường tự chủ tiếp tục thu hút nhiều ý kiến từ giới chuyên gia. Trong đó, mô hình đại học vùng được xem là một trong những cấu trúc phù hợp với tinh thần của luật sửa đổi, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với từng vùng kinh tế. 

Theo GS.TSKH Bùi Văn Ga, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau hơn 30 năm, mô hình đại học vùng đã chứng minh tính ưu việt và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Các đại học như Đại học Đà Nẵng, Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế phát huy hiệu quả nhờ hệ thống quản trị tinh gọn và lợi thế đa ngành, đa lĩnh vực. Các trường thành viên phối hợp, sử dụng hiệu quả đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, thư viện và phòng thí nghiệm chung. Điều này không chỉ tiết kiệm chi phí, tăng cường tự chủ mà còn nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và hợp tác quốc tế, góp phần khẳng định uy tín của hệ thống giáo dục đại học quốc gia.

Đại học vùng còn đóng vai trò trung tâm kết nối tri thức, doanh nghiệp và phát triển địa phương. GS Bùi Văn Ga đưa ra ví dụ, từ Đại học Đà Nẵng - một trong những đại học vùng phát huy khá rõ vai trò trung tâm đào tạo và cung ứng nhân lực cho khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Tương tự, Đại học Thái Nguyên giữ vai trò nòng cốt trong đào tạo và nghiên cứu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội khu vực trung du và miền núi phía Bắc, trong khi Đại học Huế đóng vai trò trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho khu vực Bắc Trung Bộ, đặc biệt trong các lĩnh vực y dược, sư phạm và khoa học cơ bản.

Theo GS Bùi Văn Ga, nếu không có mô hình đại học vùng, số lượng trường trực thuộc Bộ GD&ĐT sẽ tăng lên đáng kể, gây khó khăn trong quản lý và điều hành, đồng thời không phù hợp với tinh thần tinh gọn bộ máy mà Đảng và Nhà nước đang quyết tâm thực hiện.

Hơn nữa, việc tinh gọn bộ máy giúp tối ưu hóa nguồn lực, tránh trùng lặp trong đầu tư cơ sở vật chất, chương trình đào tạo và nghiên cứu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự phối hợp giữa các trường thành viên, nâng cao hiệu quả quản trị và chất lượng đào tạo. Đây cũng là bước đi chiến lược để các đại học vùng sẵn sàng thực hiện tự chủ toàn diện, nâng cao năng lực nghiên cứu, mở rộng hợp tác quốc tế và đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. 

Như vậy, Nghị quyết 71 không chỉ là định hướng về tinh gọn cơ cấu mà còn là cơ sở để đại học vùng trở thành trung tâm điều phối tri thức, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo tại các vùng kinh tế trọng điểm.

Xu hướng quốc tế và hợp tác liên ngành

GS Bùi Văn Ga cho biết, xu hướng tổ chức các đại học lớn, đa ngành, đa lĩnh vực đang trở nên phổ biến trên thế giới và phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội hiện đại. Các trường đơn ngành, quy mô nhỏ ngày càng bộc lộ hạn chế trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và kỷ nguyên số, khi nhiều ngành nghề đòi hỏi kiến thức liên ngành. Ví dụ, một kỹ sư công nghệ thông tin cần hiểu về kỹ thuật, kinh tế, quản trị và tâm lý người dùng; một bác sĩ hiện đại phải nắm vững công nghệ y sinh, trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu lớn.

Chính vì vậy, tổ chức đại học vùng với nhiều trường thành viên thuộc các lĩnh vực khác nhau sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phối hợp liên ngành, tận dụng thế mạnh từng trường và xây dựng các chương trình đào tạo tiên tiến, đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Mô hình này không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo mà còn thúc đẩy nghiên cứu liên ngành, gia tăng công bố quốc tế và nâng cao uy tín của các đại học Việt Nam. Kinh nghiệm cải cách đại học tại Pháp minh chứng rõ xu hướng hợp nhất các trường trong cùng vùng: trước đây Pháp có nhiều trường chuyên ngành, nhưng trước thách thức toàn cầu hóa, họ đã sáp nhập thành các đại học lớn trong mỗi vùng, từ đó nâng cao vị thế, khả năng cạnh tranh và uy tín quốc tế. 

Đại học vùng - Trụ cột đổi mới giáo dục và động lực phát triển vùng miền- Ảnh 2.

Đại học vùng linh hoạt nhờ tự chủ, dẫn dắt thị trường lao động và đổi mới khoa học

Theo GS.TSKH Bùi Văn Ga, với tiềm năng sẵn có, các đại học vùng Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành mô hình hình mẫu của giáo dục đại học. Kết luận số 45 của Tổ Giúp việc Ban Chỉ đạo Trung ương xác định đây là những cơ sở trọng điểm cần ưu tiên đầu tư để hình thành các trung tâm đào tạo, nghiên cứu và đổi mới tri thức mạnh. Việc nâng tầm đại học vùng ngang hàng với đại học quốc gia sẽ tạo thành "tam giác vàng" giáo dục đại học, dẫn dắt đào tạo nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo.

Để hiện thực hóa tầm nhìn này, GS Bùi Văn Ga nhấn mạnh các đại học vùng cần được trao cơ chế vận hành đặc thù, với tự chủ toàn diện về tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính, mở ngành đào tạo và hợp tác quốc tế. Tự chủ là chìa khóa giúp các đại học vùng linh hoạt thích ứng với thị trường lao động và xu hướng phát triển khoa học - công nghệ. Đồng thời, trong bối cảnh không còn Hội đồng trường, tập thể lãnh đạo đại học vùng cần đảm nhận các nhiệm vụ của Hội đồng trường để bảo đảm tính liên tục trong quản trị và phát triển chiến lược. Trong khi chờ đạt chuẩn đại học quốc gia, các đại học vùng cũng nên được hưởng cơ chế đặc thù tương tự: cơ chế tài chính cấp một, tự chủ mở ngành mới, mời chuyên gia và nhà khoa học nước ngoài, nhằm rút ngắn khoảng cách, nâng cao chất lượng và uy tín.

Thu Trang