Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng: Nghị quyết 71 thể hiện tầm nhìn xa rộng, tính hành động và tính thực tiễn cao.
Đây là khẳng định của Phó Bí thư Thường trực Đảng uỷ, Thứ trưởng Thường trực Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Ngọc Thưởng trong cuộc trả lời phỏng vấn PV Báo Điện tử Chính phủ về ý nghĩa, những điểm đột phá của Nghị quyết số 71-NQ/TW cũng như những công việc Đảng ủy Bộ GDĐT sẽ triển khai trong thời gian tới để thực hiện Nghị quyết quan trọng này.
Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng: Trong bối cảnh thế giới có những thay đổi sâu sắc, toàn diện, đặc biệt là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo đang định hình lại nền giáo dục trên phạm vi toàn cầu, các quốc gia đang phải xác định lại tầm nhìn và chiến lược mới cho phát triển hệ thống giáo dục trong tương lai, đưa ra những chính sách mới để phát triển, cạnh tranh và thu hút nhân tài.
Đất nước ta đang đứng trước vận hội lịch sử để phát triển bứt phá, thực hiện thắng lợi hai mục tiêu 100 năm, yêu cầu của việc xây dựng con người, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đặt ra rất cấp bách, đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo.
Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 71 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Trong đó, giáo dục và đào tạo tiếp tục được xác định "là quốc sách hàng đầu", "quyết định tương lai dân tộc". Nghị quyết 71 đặt phát triển giáo dục và đào tạo trong tư duy quản trị quốc gia, quản trị xã hội, đưa các mục tiêu nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo thành trọng tâm trong chiến lược, quy hoạch, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển các lĩnh vực của quốc gia.
Nghị quyết 71 thể hiện tầm nhìn xa rộng, tính hành động và tính thực tiễn cao. Nghị quyết thể hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, nhưng trước hết là quan tâm, trăn trở, mong mỏi và tình cảm đặc biệt của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm. Việc Nghị quyết được ban hành cũng thể hiện tình cảm, sự quan tâm, kì vọng của các đồng chí lãnh đạo Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, đồng chí Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, người đã luôn quan tâm chỉ đạo trực tiếp, sát sao, kịp thời và hiệu quả.
Nghị quyết số 71 được ban hành thu hút sự quan tâm rộng rãi của giáo viên, học sinh, phụ huynh và các chuyên gia; đã có nhiều bài viết, ý kiến chia sẻ thể hiện sự đồng thuận cao, coi đây là bước đi đúng đắn, kịp thời. Nghị quyết 71 càng trở nên có ý nghĩa hơn khi được ban hành vào thời điểm kỷ niệm 80 năm truyền thống ngành Giáo dục, vừa thể hiện sự ghi nhận của Đảng, Nhà nước đối với những đóng góp nổi bật của toàn ngành Giáo dục trong 80 năm qua, vừa đặt ra những kì vọng và yêu cầu mới đổi với giáo dục trong kỉ nguyên phát triển mới của đất nước.
Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng: Trước hết, Nghị quyết 71 đã nâng tầm và làm sâu sắc hơn vai trò, quan hệ của Nhà nước, xã hội và thị trường đối với giáo dục
Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng: Trước hết, Nghị quyết 71 đã nâng tầm và làm sâu sắc hơn vai trò, quan hệ của Nhà nước, xã hội và thị trường đối với giáo dục; làm rõ chủ trương đẩy mạnh tự chủ, xã hội hóa nhằm tăng cường huy động nguồn lực và trách nhiệm tham gia của xã hội đối với giáo dục, không giảm nhẹ vai trò chủ đạo của Nhà nước trong cung cấp nguồn lực cho tất cả cấp, bậc học. Đây là một chủ trương đột phá, khai thông điểm nghẽn lớn về nguồn lực, đặc biệt cho phát triển giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp.
Hai là, đảm bảo quyền tự chủ đầy đủ, thống nhất cho các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp không phụ thuộc vào mức độ tự chủ về tài chính. Tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện của tổ chức Đảng, không thành lập hội đồng trường trong cơ sở giáo dục công lập. Đây là một chủ trương đột phá, giải phóng một điểm nghẽn lớn về thể chế, tạo động lực và không gian mới cho phát triển giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp.
Ba là, nâng tầm đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, không chỉ quyết định chất lượng giáo dục, mà còn là chủ thể của đổi mới giáo dục. Đây là một chủ trương quan trọng để tạo động lực cho phát triển đội ngũ.
Bốn là, trên cơ sở truyền thống hiếu học của người Việt Nam, nâng cao nhận thức của xã hội về học tập suốt đời, học tập vì sự phát triển của đất nước và tương lai dân tộc.
Năm là, bổ sung quan điểm về giáo dục toàn diện, toàn dân và toàn cầu; bảo đảm hài hòa giữa tính toàn dân và tinh hoa, toàn diện và chuyên sâu, dân tộc và toàn cầu. Đây là quan điểm quan trọng để phát triển hệ thống giáo dục chất lượng, công bằng và hiện đại, hội nhập quốc tế theo Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Sáu là, bổ sung quan điểm xác định vai trò then chốt của giáo dục đại học với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Đây là quan điểm quan trọng để thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Bảy là, bổ sung quan điểm xác định rõ vai trò của giáo dục công lập và giáo dục ngoài công lập; khẳng định sự bình đẳng và nâng cao vai trò, vị thế của giáo dục ngoài công lập, tạo động lực xã hội hóa mạnh mẽ, có định hướng rõ ràng theo tinh thần của Nghị quyết 68-NQ-TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng: Nghị quyết 71 thể hiện rõ 7 nội dung đột phá, gồm đột phá về thể chế, chính sách; quản lí, quản trị; nguồn lực đầu tư; phát triển đội ngũ; hỗ trợ người học; tự chủ của cơ sở giáo dục; năng lực ngoại ngữ, chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Trong đó, về thể chế, chính sác, tập trung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về giáo dục và đào tạo, và pháp luật có liên quan để tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt về cơ chế, chính sách, bảo đảm thông suốt trong quá trình thực thi.
Về quản lí, quản trị, chuyển mạnh từ quản lỹ hành chính sang kiến tạo phát triển, quản trị hiện đại, hành động quyết liệt. Đặt phát triển giáo dục và đào tạo trong tư duy quản trị quốc gia, quản trị xã hội bảo đảm định hướng, quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của tổ chức đảng, không tổ chức Hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục công lập và thực hiện bí thư cấp uỷ kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục để tinh gọn bộ máy tổ chức các cơ sở giáo dục, khắc phục tình trạng bị chồng chéo chức năng, cồng kềnh, kém hiệu lực, hiệu quả, ảnh hưởng đến sự phát triển của các cơ sở giáo dục.
Về nguồn lực đầu tư, chi ngân sách nhà nước bảo đảm các điều kiện giáo dục đạt chuẩn, phấn đấu cơ cấu chi đầu tư 5%; chi cho giáo dục đại học 3%. Phân bổ ngân sách nhà nước theo sứ mạng, chất lượng và hiệu quả. Ưu tiên bố trí đất sạch, miễn giảm tiền sử dụng đất, thuê đất, mở rộng tín dụng cho cơ sở giáo dục; thúc đẩy hợp tác công tư (như cho thuê, mượn công trình công). Đầu tư kiên cố hóa, bảo đảm cơ sở vật chất đạt chuẩn, hoàn thành mạng lưới trường nội trú, bán trú trước 2030.
Về phát triển đội ngũ nhà giáo, chuyên gia và nhân tài, có chính sách ưu đãi đặc thù, bố trí đủ ngân sách cho thu hút, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo ở trong nước và nước ngoài. Bố trí đủ biên chế giáo viên theo tiêu chuẩn; nâng phụ cấp ưu đãi nghề đối với nhà giáo; huy động người có tài năng tham gia giảng dạy các môn đặc thù. Xây dựng chương trình thu hút giảng viên xuất sắc từ nước ngoài với các ưu đãi vượt khung; thực hiện cơ chế giảng viên đồng cơ hữu.
Về chính sách hỗ trợ người học, xây dựng Quỹ học bổng quốc gia, bố trí ngân sách nhà nước và huy động các nguồn hợp pháp khác để cấp học bổng hỗ trợ, khuyến khích học tập, thu hút và phát triển tài năng, cử đi học nước ngoài; ưu tiên học bổng từ ngân sách nhà nước cho các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ, nhất là ở trình độ tiến sĩ.
Về tự chủ và phát huy năng lực sáng tạo của các cơ sở giáo dục, đào tạo, xây dựng cơ chế tự chủ mạnh mẽ, tạo thuận lợi tối đa cho các cơ sở giáo dục công lập phát huy chủ động và sáng tạo; đảm bảo quyền tự chủ đầy đủ, thống nhất cho các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong hoạt động chuyên môn, quản trị nội bộ và hợp tác quốc tế, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính, không lấy tài chính làm căn cứ xác định quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp.
Về năng lực ngoại ngữ, chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giáo dục, chuyển đổi số toàn diện, ứng dụng công nghệ và trí tuệ nhân tạo, xây dựng chiến lược và nền tảng quốc gia về trí tuệ nhân tạo trong giáo dục. Phát triển hệ thống thông tin giáo dục và nhân lực quốc gia, kết nối hệ thống thông tin thị trường lao động. Tăng cường việc dạy và học ngoại ngữ, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học và dạy ngôn ngữ của các nước láng giềng.
Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng: Đảng ủy Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng toàn ngành Giáo dục sẽ phát huy truyền thống tốt đẹp từ ngàn năm và bề dầy thành tựu 80 năm, đem hết trí tuệ, lòng quyết tâm, sự sáng tạo, niềm hứng khởi và tinh thần phẩm chất cao đẹp của nghề nghiệp để hoàn thành xuất sắc trọng trách trước non sông đất nước, bắt tay vào triển khai Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị ngay từ những ngày đầu tiên của năm học mới.
Trước tiên, toàn ngành triển khai học tập quán triệt sâu rộng Nghị quyết, thống nhất nhận thức và hành động, ý thức được đầy đủ yêu cầu, nhiệm vụ, trách nhiệm và cách làm mới, tạo ra khí thế mới, động lực mới.
Xây dựng chương trình, kế hoạch chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 71 của Đảng ủy, bảo đảm "6 rõ": rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền.
Đảng ủy Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng sẽ tập trung lãnh đạo việc thể chế hóa những quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 71; trình Quốc hội thông qua 3 luật, Nghị quyết về cơ chế chính sách đặc biệt để thực hiện Nghị quyết 71, Nghị quyết về Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa và nâng cao chất lượng giáo dục; khẩn trương hoàn thành việc đánh giá quá trình triển khai chương trình giáo dục phổ thông 2018; lên phương án mới về sách giáo khoa và sách giáo khoa điện tử, học liệu điện tử; ban hành và triển khai chương trình giáo dục mầm non mới; triển khai đúng tiến độ việc xây dựng trường nội trú, bán trú tại các xã biên giới, kiên cố hóa trường lớp học…
Bên cạnh đó, Đảng ủy Bộ cũng lãnh đạo công tác sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học cao đẳng và dạy nghề, giảm số lượng, nâng cao chất lượng, tái cấu trúc bên trong các cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng, triển khai mô hình quản trị số thông minh, bỏ khâu trung gian; xây dựng quỹ học bổng quốc gia và các chính sách hỗ trợ người học; triển khai mạnh mẽ chiến lược AI trong giáo dục, chuyển đổi số và phát triển trường học thông minh, kết nối và đưa vào khai thác cơ sở dữ liệu hồ sơ học tập suốt đời của người học ngay từ những ngày đầu năm 2026…
Tôi tin rằng, với quyết tâm hành động đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả để đưa Nghị quyết 71 vào cuộc sống, Việt Nam sẽ có hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng và chất lượng, đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới vào năm 2045, khi kỉ niệm 100 năm thành lập nước.
PV: Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!
Thu Trang