Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Tận dụng tối ưu thế mạnh
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, tuy thách thức có nhiều, nhưng cơ hội cũng không ít để phát triển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, cụ thể là: Có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển, phát triển theo hướng xanh, tuần hoàn, sáng tạo, bền vững và bao trùm; các nhà đầu tư nước ngoài đang chuyển dịch chuỗi cung ứng tới Việt Nam; tiềm năng đón khách du lịch quốc nội và quốc tế ngày càng tăng sau đại dịch COVID-19 cũng như cơ chế, chính sách từ Trung ương giúp thúc đẩy các nền tảng hạ tầng cho phát triển.
Từ những tiềm năng, lợi thế nêu trên, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đã đưa ra những nhận diện, đề xuất mới, kỳ vọng mang lại đột phá.
Một là, tầm nhìn phát triển đến năm 2050, phát triển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ theo đúng tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị là vùng phát triển nhanh, bền vững, mạnh về kinh tế biển; có một số trung tâm công nghiệp, dịch vụ, hợp tác quốc tế lớn ngang tầm khu vực châu Á với các khu kinh tế ven biển hiện đại, hệ thống đô thị ven biển thông minh, bền vững, có bản sắc riêng, thân thiện với môi trường, có khả năng chống chịu cao với thiên tai, dịch bệnh và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; là nơi các giá trị văn hóa, lịch sử, hệ sinh thái biển, đảo, rừng được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đạt mức cao; quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo được bảo đảm vững chắc.
Hai là, tập trung đầu tư, nâng cấp hệ thống hạ tầng trọng yếu, đặc biệt là giao thông và logistics, năng lượng, hạ tầng thông tin và chuyển đổi số, giáo dục, đào tạo, y tế, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu… Trong đó, tập trung mọi nguồn lực xây dựng hạ tầng giao thông và logistics kết nối nội vùng và liên vùng, trong đó chú trọng việc nâng cao hiệu quả vận tải hàng hóa, đặc biệt là hàng hải và đường sắt kết nối Bắc-Nam, Đông-Tây, đảm nhận vai trò cửa ngõ ra biển của vùng Tây Nguyên, qua đó giảm chi phí logistics, góp phần tăng năng suất lao động xã hội, tăng mật độ các hoạt động kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của Vùng.
Ba là, phát triển không gian kinh tế ven biển có trọng tâm, trọng điểm. Tập trung phát triển một số khu vực động lực, cực tăng trưởng gắn với các trung tâm chuyên ngành về kinh tế biển lớn tầm khu vực và quốc tế gồm: Tiểu vùng Bắc Trung Bộ; tiểu vùng Trung Trung Bộ và tiểu vùng Nam Trung Bộ với các đặc trưng phát triển riêng có của từng tiểu vùng.
Bốn là, thu hút, kết nối và huy động mọi nguồn lực đầu tư, mọi thành phần kinh tế để đẩy nhanh việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế Vùng, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Cụ thể, tập trung phát triển các cụm liên kết ngành kinh tế biển với trọng tâm là liên kết giữa các khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển; đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển công nghiệp xanh, gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn; cơ cấu lại nông, lâm nghiệp, khai thác, nuôi trồng thủy, hải sản gắn với công nghiệp chế biến, bảo đảm bền vững và hiệu quả cao;...
Năm là, tăng cường hợp tác và liên kết liên tỉnh cho phát triển kinh tế-xã hội như: Nam Thanh Hóa-bắc Nghệ An; nam Nghệ An-bắc Hà Tĩnh; nam Hà Tĩnh-bắc Quảng Bình; nam Phú Yên-bắc Khánh Hòa. Thúc đẩy các hoạt động liên kết phát triển vùng để quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên biển, đảo và rừng; bảo vệ môi trường, nhất là môi trường biển; nâng cao khả năng ứng phó với thiên tai, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn.
Sáu là, phát triển hệ thống đô thị, đặc biệt là dải đô thị ven biển, gắn kết chặt chẽ với phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp để hỗ trợ hiệu quả cho việc phát triển các trung tâm kinh tế biển theo hướng nâng cao mật độ các hoạt động kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và hội nhập quốc tế của các đô thị.
Bảy là, phát triển toàn diện kinh tế-văn hóa-xã hội-môi trường. Tạo chuyển biến về chất lượng trong giáo dục và đào tạo; đổi mới giáo dục nghề nghiệp gắn với thế mạnh và định hướng phát triển vùng, coi đây là một trong những khâu đột phá cho phát triển vùng. Chú trọng phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, bãi ngang, hải đảo...
Quy hoạch "mở đường" phát triển cho vùng
Xác định rõ vị trí vai trò của quy hoạch, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, ngay từ những ngày đầu tổ chức lập Quy hoạch vùng, Bộ KH&ĐT đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và các địa phương trong vùng để triển khai lập quy hoạch vùng. Quy hoạch giúp “mở đường” tạo ra các động lực, tiềm năng, không gian phát triển mới của vùng.
Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ được lập trong bối cảnh Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 03/11/2022 về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 168/NQ-CP ngày 01/8/2022 về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị; Quốc hội thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia và Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đặc biệt, hiện nay đã có 86/110 quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia đã được thẩm định; trong đó có 16 quy hoạch ngành quốc gia và 05/14 quy hoạch tỉnh thuộc vùng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; là "mặt tiền" của quốc gia và "khúc ruột" của Tổ quốc, là "cửa ngõ" ra biển cả và "bệ đỡ" cho các tỉnh Tây Nguyên. Chiều dài bờ biển gần 1.800 km, chiếm hơn 55% bờ biển cả nước và nhiều cảng biển, cảng hàng không lớn, nên quy hoạch vùng có ý nghĩa quan trọng cho phát triển kinh tế biển và bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Minh Ngọc