• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Đổi mới toàn diện, phát triển nhanh và bền vững, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển

Báo cáo của Chính phủ về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI.

28/06/2006 11:12

Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Thưa các đồng chí lão thành cách mạng và các vị khách,

Thưa đồng chí, đồng bào,

Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công tốt đẹp. Đại hội đã quyết nghị thông qua Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010. Tại kỳ họp này, Chính phủ xin trình Quốc hội bản dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 trên cơ sở quán triệt và cụ thể hóa những phương hướng, nhiệm vụ mà Đại hội X của Đảng đã đề ra. 

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 (sau đây gọi tắt là Kế hoạch) có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, nhằm tiếp tục đổi mới toàn diện, phát triển nhanh và bền vững, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Trước ngày khai mạc kỳ họp này của Quốc hội, Chính phủ đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội bản dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010; Báo cáo bổ sung về kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội  năm 2005 và tình hình triển khai kế hoạch năm 2006; Báo cáo kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2005 và triển khai nhiệm vụ ngân sách nhà nước năm 2006; Báo cáo kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2006 - 2010. Chính phủ cũng đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội một số báo cáo chuyên đề khác.

Hôm nay, được sự ủy nhiệm của Thủ tướng Phan Văn Khải, thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo tóm tắt những nội dung chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 và tình hình triển khai kế hoạch 2006 qua 4 tháng đầu năm.

 

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2001 - 2005

 

Bằng sự nỗ lực phấn đấu của cả nước, quý 4 năm 2005 các hoạt động kinh tế, xã hội đều diễn biến theo chiều hướng tích cực và đạt kết quả cao hơn so với Báo cáo của Chính phủ đã trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8[1].

Sau khi đã có số liệu đầy đủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2005 và 5 năm, có thể khẳng định rằng, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 đã được hoàn thành thắng lợi.

Tình hình thực hiện 19 chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 do Quốc hội khóa X thông qua như sau:

(1) Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 7,5%/năm, đạt kế hoạch;

(2) Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,4%/năm (kế hoạch 4,8%);

(3) Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16%/năm (kế hoạch 13,1%);

(4) Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 7,6%/năm (kế hoạch 7,5%);

(5) Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP năm 2005 đạt 20,9% (kế hoạch 20 - 21%);

(6) Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP năm 2005 đạt 41% (kế hoạch 38 - 39%);

(7) Tỷ trọng dịch vụ trong GDP năm 2005 đạt 38,1% (kế hoạch 41 - 42%);

(8) Kim ngạch xuất khẩu tăng 17,5%/năm (kế hoạch 14 - 16%);

(9) Dân số năm 2005  so với năm 2004 tăng 1,33% (kế hoạch 1,2%);

(10) Tỷ lệ sinh giảm khoảng 0,04%/năm (kế hoạch 0,05%);

(11) Tạo việc làm và bổ sung việc làm mới cho khoảng 7,5 triệu người, đạt kế hoạch;

(12) Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2005 đạt  25% (kế hoạch 30%);

(13) Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở đi học trong độ tuổi năm 2005 đạt  85% (kế hoạch 80%);

(14) Tỷ lệ học sinh phổ thông trung học đi học trong độ tuổi năm 2005 khoảng 50% (kế hoạch 45%);

(15) Tỷ lệ hộ nghèo năm 2005 theo chuẩn cũ còn khoảng 7% (kế hoạch dưới 10%);

(16) Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng năm 2005 xuống 25%, đạt kế hoạch;

(17) Thuốc sản xuất trong nước chiếm khoảng 45% thị phần thuốc chữa bệnh(kế hoạch 40%);

(18) Tuổi thọ bình quân của người dân vào năm 2005 khoảng 71,3 tuổi (kế hoạch 70 tuổi);

(19) Tỷ lệ dân cư nông thôn được cung cấp nước sạch năm 2005 khoảng 62% dân số(kế hoạch 60%).

Như vậy, trong tổng số 19 chỉ tiêu nêu trên, có 4 chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch, đó là: tỷ trọng dịch vụ trong GDP; tốc độ tăng dân số; tỷ lệ giảm sinh; tỷ lệ lao động qua đào tạo. Tuy tốc độ tăng trưởng dịch vụ vượt kế hoạch, song do giá khu vực dịch vụ tăng chậm hơn các khu vực khác nên tỷ trọng dịch vụ trong GDP tăng thấp hơn.  

Trên cơ sở kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu và xem xét thực tế tình hình nhiệm vụ các mặt, bản dự thảo Kế hoạch đưa ra những đánh giá tổng quát, nguyên nhân bài học kinh nghiệm như sau:

 Về đánh giá tổng quát: Năm năm qua, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược 10 năm phát triển kinh tế - xã hội. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá nhanh, năm sau cao hơn năm trước. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu. Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất quan trọng. Tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường đáng kể; khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng lên. Văn hóa - xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật. Chính trị - xã hội ổn định. Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia được giữ vững. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm, vị thế quốc tế của nước ta được nâng lên rõ rệt.

Nguyên nhân đạt được những thành tựu rất quan trọng là: (1) Đảng ta có đường lối, chủ trương đúng đắn; Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng với tinh thần tiếp tục đổi mới đã được cụ thể hóa phù hợp với thực tế trong các nghị quyết của Trung ương và được thể chế hóa theo hướng xây dựng đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (2) Sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; sự chỉ đạo, điều hành có hiệu quả của Chính phủ; sự năng động và quyết tâm của các ngành, các cấp, các doanh nghiệp khắc phục khó khăn để hoàn thành thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005. (3) Kết quả đầu tư của nhiều năm qua cùng với sự huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân, vào công cuộc phát triển đất nước.

Tuy nhiên, những thành tựu đã đạt được trong 5 năm qua còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước, hoạt động kinh tế - xã hội còn nhiều yếu kém, bất cập; việc huy động và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực, vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội còn kém hiệu quả và chưa tương xứng với tiềm năng. Trình độ phát triển kinh tế và công nghệ vẫn tụt hậu so với nhiều nước xung quanh. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, chất lượng và tính bền vững của sự phát triển còn kém. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại còn nhiều hạn chế. Văn hóa - xã hội phát triển chưa ngang tầm và còn nhiều vấn đề bức xúc; chưa thực hiện tốt việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức đổi mới chậm; quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy thật tốt.

Các yếu kém và bất cập về kinh tế, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, đó là: (1) Chậm đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; chậm xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (2) Chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt nhất các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. (3) Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả; công tác tổ chức, cán bộ chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu. (4) Chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là một khâu yếu nhất.

Từ thực tiễn 5 năm qua, có thể rút ra mấy bài học kinh nghiệm lớn và cũng là những tư tưởng chỉ đạo cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm  tới, đó là:

(1) Bài học về phát triển nhanh và bền vững

Phát triển nhanh phải đi đôi với nâng cao tính bền vững. Tăng trưởng về số lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu. Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Phải rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển.

Phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, coi đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững.

(2) Bài học về huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nhất là nội lực

Nội lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển. Nội lực được tăng cường mới bảo đảm được độc lập tự chủ về kinh tế, thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn lực của toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng tốt nhất các nguồn lực của Nhà nước. Điều có ý nghĩa quyết định là phải có chính sách phù hợp để phát huy tối đa khả năng của mọi người dân, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân - một nguồn lực giàu tiềm năng của dân tộc ta - để góp phần quan trọng giải quyết việc làm, đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội.

Ngoại lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển. Kết hợp tốt nội lực và ngoại lực sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp xây dựng đất nước. Muốn phát huy tốt ngoại lực, phải có một chiến lược phù hợp và môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh, trước hết là có một hệ thống thể chế, chính sách đồng bộ, một nền hành chính minh bạch, hiệu lực, hiệu quả.

(3) Bài học về hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ

Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình phù hợp với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ, nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn.

Phải tích cực mở rộng thị trường bên ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời phải chủ động mở cửa thị trường trong nước, kể cả thị trường dịch vụ, để thu hút mạnh vốn đầu tư, công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Trong tiến trình mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới, phải biết phát huy lợi thế so sánh để phát triển. Đồng thời, để phát triển bền vững, tăng khả năng độc lập tự chủ của đất nước, nhất thiết phải tăng cường tiềm lực, giữ vững các cân đối vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế và phải phát huy cao nhất các nguồn lực để xây dựng nhanh kết cấu hạ tầng, phát triển có hiệu quả một số ngành và sản phẩm thiết yếu.

(4) Bài học về phát triển kinh tế thị trường đồng thời với chăm lo ngày càng tốt hơn phúc lợi xã hội

Giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi phải hình thành nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đầy đủ những nguyên tắc của thị trường. Đồng thời, càng đi vào kinh tế thị trường, càng phải chăm lo tốt hơn phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Phải đề cao trách nhiệm của Nhà nước và sự đóng góp của toàn xã hội để đầu tư nhiều hơn cho lĩnh vực văn hóa, xã hội và thực hiện tốt hơn yêu cầu gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội.

(5) Bài học về công tác tổ chức thực hiện và tuyển chọn, bố trí đúng cán bộ

Phải tuyển chọn và bố trí đúng cán bộ đáp ứng được yêu cầu công việc; phải giao nhiệm vụ rõ ràng và quyền hạn tương xứng cho người đứng đầu từng tổ chức, từng đơn vị, kể cả quyền hạn về tổ chức bộ máy và nhân sự; đồng thời, phải yêu cầu rất cao về trách nhiệm đối với cán bộ, nhất là người đứng đầu, khi không hoàn thành được nhiệm vụ, công việc trì trệ hoặc có sai phạm, khuyết điểm phải xử lý nghiêm minh kịp thời, kể cả thay thế. Phải có quy chế cụ thể về công tác cán bộ để đáp ứng được yêu cầu này.

Phần thứ hai

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2006 - 2010

Nước ta bước vào thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 trong bối cảnh có nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đều lớn, đan xen nhau.

Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn ngày càng mở rộng. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tiếp tục phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động rộng lớn đến cơ cấu và sự phát triển của kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế tham gia phân công lao động toàn cầu. Kinh tế châu Á- Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, hợp tác trong khu vực ngày càng mở rộng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi quốc gia.

Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, khó lường; các tranh chấp, xung đột cục bộ, cùng với hoạt động khủng bố quốc tế có thể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Các nước lớn cạnh tranh quyết liệt vì lợi ích kinh tế và tìm cách áp đặt các rào cản trong thương mại với các nước nghèo và đang phát triển. Thị trường tài chính, tiền tệ và giá cả thế giới còn diễn biến phức tạp. Các vấn đề mang tính toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn năng lượng và nguyên vật liệu, khoảng cách giàu nghèo... sẽ càng trở nên gay gắt hơn.

Ở trong nước, chúng ta có được thuận lợi rất cơ bản là những thành tựu to lớn và những bài học kinh nghiệm quan trọng sau 20 năm đổi mới, nhưng còn nhiều yếu kém, đặc biệt là nền kinh tế đang ở trình độ phát triển thấp, quy mô nhỏ, sức cạnh tranh yếu, còn tụt hậu khá xa so với nhiều nước trong khu vực, chưa vượt ra khỏi nhóm các nước đang phát triển có thu nhập thấp[1], trong khi yêu cầu của đất nước, nhân dân về phát triển nhanh, bền vững rất cao và yêu cầu về hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới ngày càng khẩn trương, sâu rộng hơn. 

Những đặc điểm tình hình nêu trên đặt ra cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong 5 năm tới nhiệm vụ rất nặng nề, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải có quyết tâm rất cao với các giải pháp thật quyết liệt mới có thể thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 đã đề ra.

Mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ, các chỉ tiêu định hướng chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010

Mục tiêu tổng quát

Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.

Các nhiệm vụ chủ yếu

(1) Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển có thu nhập thấp.

 (2) Chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, thực hiện các nguyên tắc của thị trường, hình thành đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm của nước ta.

(3) Chủ động và tích cực đẩy nhanh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế.

(4) Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức.

(5) Tạo chuyển biến mạnh trong việc xây dựng văn hóa, đạo đức và lối sống; kiềm chế tốc độ tăng dân số, nâng cao thể chất và sức khỏe nhân dân; bảo vệ và cải thiện môi trường.

(6) Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bình đẳng giới, giải quyết việc làm, khuyến khích làm giàu hợp pháp, xóa đói, giảm nghèo, phát triển hệ thống an sinh; đẩy lùi các tệ nạn xã hội.

(7) Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo bước chuyển rõ rệt về cải cách hành chính, ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

(8) Tăng cường quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị - xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững môi trường hòa bình và ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Các chỉ tiêu định hướng chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010

Kế hoạch 5 năm lần này được xây dựng toàn diện hơn theo ba nhóm chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế, xã hội và môi trường, coi trọng hơn các chỉ tiêu về chất lượng phát triển.

Về kinh tế

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân trong 5 năm 2006 - 2010 đạt 7,5 - 8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm; GDP năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn 2,1 lần so với năm 2000, đạt khoảng 1.690 - 1.760 nghìn tỷ đồng theo giá hiện hành, tương đương 94 - 98 tỷ USD và GDP bình quân đầu người khoảng 1.050 - 1.100 USD.

Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3 - 3,2%/năm;

Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp và xây dựng tăng 9,5 - 10,2%/năm;

Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng 7,7 - 8,2%/năm;

Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt  khoảng  21 - 22% GDP;

Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP năm 2010: nông, lâm nghiệp và thủy sản khoảng 15 - 16%; công nghiệp và xây dựng khoảng 43 - 44%; các ngành dịch vụ khoảng 40 - 41%;

Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm; năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 770 - 780 USD/người, gấp đôi năm 2005;

Tổng đầu tư toàn xã hội 5 năm khoảng 2.200 nghìn tỷ đồng (theo giá năm 2005), tương đương gần 140 tỷ USD[1], chiếm 40% GDP, trong đó vốn trong nước chiếm khoảng 65% và vốn bên ngoài chiếm khoảng 35%;

Năm 2010, mật độ điện thoại đạt trên 35 máy/100 dân; mật độ Internet đạt 12,6 thuê bao/100 dân.

Về xã hội

Năm 2010:

100% số tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; đạt 200 sinh viên đại học và cao đẳng/10.000 dân;

Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 40% tổng lao động xã hội;

Tốc độ phát triển dân số khoảng 1,14%; dân số khoảng 88,4 triệu người;

Trong 5 năm, dạy nghề cho 7,5 triệu lao động, trong đó 25 - 30% dài hạn; tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho trên 8 triệu lao động, bình quân mỗi năm trên 1,6 triệu lao động, trong đó 50% là lao động nữ;

Năm 2010:

Tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 5%;

Lao động nông nghiệp chiếm 50% lao động xã hội;

Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đạt 72 tuổi;

Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 16/1.000 trẻ đẻ sống và dưới 5 tuổi là 25/1.000 trẻ đẻ sống; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi rút xuống 20%. Giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan thai sản xuống 60/100.000 trẻ đẻ sống;

Số bác sĩ 7/10.000 dân, số dược sĩ đại học 1 - 1,2/10.000 dân; số giường bệnh 26 giường/10.000 dân;

70% số xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn phù hợp với trẻ em[1]; 90% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được bảo vệ, chăm sóc;

Kiềm chế mức tăng tỷ lệ lây nhiễm HIV/AIDS không quá 0,3% dân số;

Giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) xuống còn 10 - 11%[1];

Diện tích nhà ở đạt mức bình quân 14 - 15 m2 sàn/người.

Về môi trường

Năm 2010:

Đưa tỷ lệ che phủ rừng lên mức 42 - 43%;

100% cơ sở sản xuất mới xây dựng áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, đảm bảo xử lý chất thải, 50% các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn môi trường;

100% số đô thị loại 3 trở lên, 50% số đô thị loại 4 và 100% các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải; thu gom và xử lý 90% chất thải rắn thông thường, 80% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế;

95% dân cư thành thị và 75% dân cư ở nông thôn sử dụng nước sạch.

 

Phần thứ ba

NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

VÀ CHÍNH SÁCH, GIẢI PHÁP LỚN

Dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 đã đề cập các định hướng phát triển và chính sách, giải pháp lớn về kinh tế; xã hội; môi trường; kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh; phát triển vùng lãnh thổ; đầu tư và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; phát triển các loại hình doanh nghiệp; chính sách tài chính, tiền tệ, ổn định và cải thiện kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh; xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Xin không nêu lại tất cả các nội dung, chỉ xin trình bày tóm tắt một số vấn đề chủ yếu sau đây:

1. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nông dân

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch. Tốc độ phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn mức bình quân của cả nước. Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới.

Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao; quy hoạch diện tích sản xuất lương thực ổn định, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực; phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng quy mô lớn, an toàn dịch bệnh và bền vững về môi trường. Xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình bảo vệ và phát triển rừng. Nâng cao chất lượng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, phát triển mạnh việc trồng mới và khai thác bền vững rừng sản xuất. Bảo đảm lợi ích thỏa đáng của người được giao kinh doanh, chăm sóc và bảo vệ rừng.

Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa lớn đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; chuyển đổi cơ cấu khai thác để nâng cao giá trị hàng hóa, sử dụng hợp lý nguồn lợi, bảo đảm cho tăng trưởng bền vững.

Đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ, nhất là giống và kỹ thuật sản xuất; tăng cường hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác, tạo sự đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong nông, lâm, ngư nghiệp. Áp dụng công nghệ cao để sản xuất nông sản thực phẩm sạch. Nâng cao khả năng phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi. Xây dựng cơ chế bảo hiểm nông sản.

Khuyến khích mạnh các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phát triển vững chắc các làng nghề. Tạo mọi thuận lợi cho kinh tế hộ phát triển. Khuyến khích nông dân góp quyền sử dụng đất và lao động của mình với các doanh nghiệp, hợp tác xã, các chủ trang trại để phát triển sản xuất hàng hóa, ổn định và cải thiện đời sống.

Nhà nước tăng đầu tư và đa dạng hóa các nguồn vốn để phát triển mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn. Nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ. Củng cố hệ thống hồ, đập, đê, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng, chống lụt bão. Đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng để hoàn thành chương trình cụm tuyến dân cư vùng ngập lũ. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô tô tới khu trung tâm, từng bước phát triển đường ô tô tới thôn, bản, ấp; phấn đấu đến năm 2010, trên 90% hộ dân cư nông thôn có điện sinh hoạt.

Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn, nhất là các nơi Nhà nước thu hồi đất. Nhà nước đầu tư nhiều hơn và phát huy khả năng trợ giúp của xã hội để thực hiện tốt xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn. Giải quyết ổn định lương thực cho các hộ nghèo, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số.

Xây dựng hoàn chỉnh các quy hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với việc hình thành các khu dân cư đô thị hóa. Phát huy dân chủ, xây dựng nếp sống văn hóa, bài trừ các tệ nạn xã hội.

2. Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội theo hướng hiện đại

Phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế để phát triển công nghiệp và xây dựng với cơ cấu ngành nghề phù hợp. Nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị tăng thêm, giá trị nội địa trong sản phẩm công nghiệp. Phát triển công nghiệp và xây dựng gắn với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và bảo vệ môi trường.

Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, chế tác; công nghiệp công nghệ cao; công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng; công nghiệp quốc phòng; góp phần xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế.

Tập trung nguồn lực phát triển mạnh các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động. Nâng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến. Chú trọng phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng; công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên, vật liệu; công nghiệp dược và các chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường.

Việc phát triển các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng chủ yếu là dựa vào nguồn lực của các thành phần kinh tế, cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Nhà nước tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản phẩm quan trọng của nền kinh tế, như: lọc hóa dầu, khai thác quặng và luyện thép, phân bón, hóa chất, xi măng, khai thác bô - xít và sản xuất alumin, bột giấy gắn với trồng rừng và một số sản phẩm cơ khí chế tạo.

Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước; hình thành các vùng công nghiệp trọng điểm. Chuyển các cơ sở công nghiệp trong khu đông dân cư, không bảo đảm tiêu chuẩn môi trường vào các khu công nghiệp tập trung.

Trên cơ sở bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch, Nhà nước ưu tiên ngân sách và huy động mạnh mẽ các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong từng vùng và trên cả nước, xem đây là một khâu đột phá để phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp nước ngoài đầu tư. Chú trọng các công trình thiết yếu, phát huy nhanh tác dụng. Khắc phục nhanh tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, kém chất lượng.

Tập trung các nguồn lực để ưu tiên đầu tư hoàn chỉnh cơ bản hệ thống giao thông đường bộ, đường sông, đường sắt, đường biển, đường hàng không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các công trình thủy lợi có nhu cầu cấp bách, gắn với phát triển thủy điện. Đầu tư tăng nhanh nguồn điện, hoàn chỉnh hệ thống truyền tải, đáp ứng đủ điện cho nhu cầu phát triển. Nhà nước tập trung đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào ngành điện trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh và thực hiện cơ chế thị trường về giá bán điện, đồng thời có chính sách trợ giúp hợp lý hộ nghèo.

Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa ngành bưu chính - viễn thông; đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại, đồng bộ và ổn định; bảo đảm cạnh tranh bình đẳng trong dịch vụ thông tin.

Rà soát, bổ sung và nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, chú trọng mạng lưới giao thông, hệ thống cấp nước, thoát nước và xử lý chất thải; quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch và các quy chế về đô thị.                                                                                        

Huy động các nguồn lực của toàn xã hội để xóa nhà ở tạm bợ cho người nghèo và phát triển nhanh quỹ nhà đáp ứng cơ bản nhu cầu nhà ở cho nhân dân, đặc biệt là công nhân các khu công nghiệp.

Nhà nước tăng tỉ trọng đầu tư từ ngân sách cho phát triển kết cấu hạ tầng xã hội, nhất là giáo dục, y tế.

3. Tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ

Tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP.

Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn. Mở rộng các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Khuyến khích đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động du lịch. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán. Phát triển các dịch vụ pháp luật, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, dịch vụ việc làm và an sinh xã hội.

Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.

Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng dịch vụ công cộng[1] là khâu đột phá để phát triển nhanh và có hiệu quả các lĩnh vực văn hóa - xã hội.

Phương hướng đổi mới chủ yếu trong lĩnh vực này là: (1) Luôn coi trọng yêu cầu nâng cao phúc lợi xã hội cơ bản của nhân dân, đặc biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách; đồng thời, không xem nhẹ việc đáp ứng nhu cầu của bộ phận ngày càng đông dân cư có thu nhập cao hơn; (2) Nhà nước tăng đầu tư từ ngân sách tiếp tục phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung cho toàn xã hội và bảo đảm cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là về y tế, giáo dục cho người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các cơ sở dịch vụ tư nhân và cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài; (3) Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị công lập cung ứng dịch vụ công cộng theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực hiện hạch toán thu - chi không vì lợi nhuận; Nhà nước không bao cấp tràn lan.

Dịch vụ công cộng liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân, việc chuyển đổi cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các loại dịch vụ này cần được thực hiện một cách tích cực, nhưng phải có lộ trình và kế hoạch đồng bộ.

4. Tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại

Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện có hiệu quả các cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế, trước hết là với Khu vực mậu dịch tự do ASEAN; khẩn trương chuẩn bị các điều kiện cho việc gia nhập WTO.

Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, bảo đảm lợi ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế. Cải thiện môi trường đầu tư, chú trọng cải cách hành chính, đào tạo nguồn nhân lực, tạo lập những điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh vốn đầu tư quốc tế.

Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được đối xử bình đẳng như doanh nghiệp Việt Nam. Phấn đấu để vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả nguồn FDI.

Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn ODA, đẩy nhanh tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng, kiểm soát chặt chẽ, chống thất thoát và có kế hoạch đảm bảo trả nợ. Từng bước mở rộng đầu tư gián tiếp của nước ngoài. Có chính sách thu hút mạnh kiều hối vào phát triển kinh tế, xã hội.

Đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nhanh t�� trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến có giá trị tăng thêm cao, giàu hàm lượng công nghệ, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực, hạn chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua chế biến. Bằng các biện pháp ổn định và mở rộng thị trường xuất khẩu, phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm tới lên hơn hai lần 5 năm trước. Chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp dần nhập siêu.

Phát huy tính năng động của doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế. Từng doanh nghiệp phải khẩn trương đổi mới để tăng sức cạnh tranh. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới.

5. Tạo chuyển biến cơ bản về giáo dục và đào tạo; phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ

Về giáo dục và đào tạo

Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân, vì dân, bảo đảm công bằng và cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập, học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên. Triển khai thực hiện hệ thống kiểm định khách quan, trung thực chất lượng giáo dục, đào tạo.

Hoàn chỉnh và ổn định lâu dài hệ thống giáo dục quốc dân; chú trọng phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở; bảo đảm liên thông giữa các cấp đào tạo. Đổi mới cơ bản và toàn diện, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Tập trung sức xây dựng một, hai trường đại học của Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế.

Mở rộng quy mô dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, bảo đảm tốc độ tăng nhanh hơn đào tạo đại học, cao đẳng. Quy mô tuyển sinh dạy nghề dài hạn tăng khoảng 17%/năm và trung học chuyên nghiệp tăng khoảng 15%/năm. Tăng nhanh tỉ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông được học tiếp lên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề.

Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo. Rà soát, sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng các trường công lập; bổ sung chính sách ưu đãi để phát triển các trường ngoài công lập và các trung tâm giáo dục cộng đồng. Có lộ trình cụ thể cho việc chuyển một số cơ sở giáo dục, đào tạo công lập sang dân lập, tư thục; xóa bỏ hệ bán công. Khuyến khích thành lập mới và phát triển các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề ngoài công lập, kể cả trường do nước ngoài đầu tư.

Sửa đổi chế độ học phí đi đôi với đổi mới cơ chế tài chính giáo dục và đào tạo, xác định đầy đủ chi phí dạy và học, chia sẻ hợp lý trách nhiệm chi trả giữa Nhà nước, xã hội và người học; thực hiện miễn, giảm học phí và cấp học bổng cho học sinh nghèo, học sinh thuộc diện chính sách và học sinh giỏi.

Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống trường lớp, cơ sở vật chất - kỹ thuật các cấp học, mở thêm các trường nội trú, bán trú và có chính sách bảo đảm đủ giáo viên cho các vùng này; phấn đấu đưa các chỉ số phát triển giáo dục và đào tạo ở đồng bằng sông Cửu Long lên ngang trình độ bình quân của cả nước.

Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo; Nhà nước thực hiện đúng chức năng định hướng phát triển, tạo lập khung pháp lý và kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo. Đổi mới tổ chức và hoạt động, đề cao và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường. Tập trung khắc phục những tiêu cực trong giáo dục và đào tạo.

Về khoa học và công nghệ

Thống nhất định hướng giữa phát triển khoa học và công nghệ với chấn hưng giáo dục và đào tạo, phát huy quan hệ tương tác thúc đẩy lẫn nhau giữa hai lĩnh vực quốc sách hàng đầu này.

Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế. Tăng nhanh năng lực nội sinh đi đôi với tăng cường tiếp thu, làm chủ, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ thế giới. Nâng cao chất lượng và tính thương mại của các sản phẩm khoa học và công nghệ; thực thi tốt pháp luật về sở hữu trí tuệ. Cùng với việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động khoa học và công nghệ, Nhà nước tập trung đầu tư vào các chương trình nghiên cứu quốc gia và xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ cho một số lĩnh vực trọng điểm. Chú trọng công tác đào tạo và bổ sung chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và trọng dụng nhân tài.

Đổi mới tổ chức và xây dựng quy chế liên kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo, giữa nghiên cứu và giảng dạy với sản xuất, kinh doanh. Khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới và chuyển giao công nghệ, nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất. Phát triển quan hệ liên kết, đặt hàng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ.

Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động này. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Khuyến khích phát triển mạnh các doanh nghiệp khoa học và công nghệ thuộc mọi thành phần kinh tế.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ và khuyến khích tổ chức, cá nhân nước ngoài vào đầu tư; thu hút chuyên gia, đặc biệt là chuyên gia giỏi người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tham gia giảng dạy, phát triển khoa học và công nghệ tại Việt Nam.

6. Phát triển mạnh văn hóa, xã hội và bảo vệ môi trường tương xứng với phát triển kinh tế

Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên; chống những hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa. Đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa đại chúng, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Bồi dưỡng các tài năng văn hóa, khuyến khích sáng tạo nhiều tác phẩm văn hóa, nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Nâng cao chất lượng và mở rộng diện phổ biến các sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao, đa dạng của các tầng lớp nhân dân. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản và phát hành sách trên tất cả các vùng, chú ý nhiều hơn đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Tiếp tục kiềm chế tốc độ tăng dân số, phấn đấu đạt chỉ tiêu kế hoạch về dân số. Chú trọng nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý.

Nhà nước ưu tiên đầu tư và huy động đầu tư của toàn xã hội để giải quyết việc làm. Khuyến khích phát triển nhanh các loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều lao động. Tiếp tục hoàn chỉnh thể chế thị trường lao động, bảo đảm hài hòa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động. Tiếp tục thực hiện chương trình xuất khẩu lao động, tăng tỉ lệ lao động xuất khẩu đã qua đào tạo. Đổi mới hệ thống bảo hiểm xã hội, đa dạng hóa hình thức và phù hợp với kinh tế thị trường, xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp.

Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi người có công với nước; vận động toàn xã hội tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa; nâng cao mức sống về vật chất, tinh thần của người có công ngang bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư. Trợ giúp nạn nhân chất độc da cam, người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật. Huy động sức mạnh toàn xã hội để ngăn chặn, đẩy lùi và khắc phục các tệ nạn xã hội.

Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức thực hiện xóa đói, giảm nghèo. Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo vươn lên thoát nghèo; kết hợp chính sách của Nhà nước với sự giúp đỡ của toàn xã hội, của những người khá giả cho người nghèo, nhất là đối với những vùng đặc biệt khó khăn. Ngăn chặn tình trạng tái nghèo. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đặc biệt về trợ giúp đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sạch, đào tạo nghề và tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo.

Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tăng đầu tư của Nhà nước để nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, y tế dự phòng, các bệnh viện đa khoa, các trung tâm y tế vùng, các cơ sở y tế chuyên sâu. Phát triển hệ thống y tế dự phòng. Khuyến khích phát triển các cơ sở y tế thuộc nhiều hình thức sở hữu. Bố trí mạng lưới bệnh viện theo địa bàn dân cư, tạo thuận lợi cho người dân khám, chữa bệnh không lệ thuộc vào địa giới hành chính. Sửa đổi chế độ viện phí theo nguyên tắc xác định đầy đủ chi phí khám, chữa bệnh và chia sẻ hợp lý trách nhiệm chi trả giữa Nhà nước, xã hội và người bệnh; Nhà nước trợ giúp một phần hoặc toàn bộ viện phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách chủ yếu thông qua bảo hiểm y tế. Phát triển và nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế; tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Phát triển mạnh công nghiệp dược và trang bị, thiết bị y tế. Củng cố mạng lưới cung ứng và kiểm soát thị trường thuốc chữa bệnh.

Coi trọng việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Thực hiện các biện pháp mạnh mẽ để ngăn chặn các hành vi hủy hoại hoặc gây ô nhiễm môi trường; đặc biệt tập trung khắc phục nạn cháy rừng, ô nhiễm ở các lưu vực sông, các đô thị, khu công nghiệp và các làng nghề; phục hồi môi trường các khu khai thác khoáng sản và các hệ sinh thái đã bị xâm phạm. Nhà nước tăng đầu tư và có chính sách để thu hút đầu tư của xã hội vào lĩnh vực môi trường, trước hết là các hoạt động thu gom, xử lý và tái chế chất thải. Phát triển và ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường.

7. Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kiểm soát và ổn định kinh tế vĩ mô

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế thị trường, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Hoàn thiện hệ thống quy tắc vận hành của các tổ chức tham gia thị trường đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Điều chỉnh mạnh chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Nhà nước, tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo môi trường kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, không can thiệp trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh.

Thực hiện nhất quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp

Nhà nước làm tốt việc định hướng, tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển và hoạt động có hiệu quả theo cơ chế thị trường. Hỗ trợ mạnh mẽ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn, đa sở hữu, tạo sức mạnh cho đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. Thu hút ngày càng nhiều tập đoàn kinh tế lớn của các nước đến đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.

Khuyến khích phát triển mạnh hình thức kinh tế đa sở hữu mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để hình thức kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế.

Thực hiện chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn đối với một số ngành, một số sản phẩm quan trọng, không phân biệt thành phần kinh tế và phù hợp với các cam kết quốc tế.

Chủ động triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là về đào tạo cán bộ quản trị và đào tạo nghề cho lao động; về cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, xử lý rủi ro trong kinh doanh, bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp. Thực sự tôn vinh các doanh nhân có tài và thành đạt, đóng góp nhiều cho xã hội.

Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước

Khẩn trương hoàn thành vững chắc kế hoạch sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước theo hướng đa sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ phần. Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối.

Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng công ty. Thực hiện nguyên tắc thị trường trong việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với các tổng công ty, công ty cổ phần hoạt động trong những lĩnh vực quan trọng và bảo đảm những cân đối lớn của nền kinh tế; chỉ giữ 100% vốn nhà nước trong các doanh nghiệp hoạt động bảo đảm an ninh, quốc phòng và những doanh nghiệp công ích thiết yếu mà chưa cổ phần hóa được. Chuyển các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn mà chủ sở hữu là Nhà nước.

Đối với những tổng công ty lớn chưa cổ phần hóa toàn bộ tổng công ty, thực hiện cổ phần hóa hầu hết các doanh nghiệp thành viên và chuyển các doanh nghiệp thành viên còn lại sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn; đồng thời, chuyển các tổng công ty này sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Tổ chức lại Hội đồng quản trị để thực sự là đại diện trực tiếp của chủ sở hữu tại tổng công ty.

Đặt các doanh nghiệp có vốn nhà nước vào môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Thu hẹp tối đa diện Nhà nước độc quyền kinh doanh, xóa bỏ đặc quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Có cơ chế giám sát và chính sách điều tiết những doanh nghiệp chưa xóa bỏ được vị thế độc quyền kinh doanh. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp nhà nước khi hội đủ các điều kiện, trong những lĩnh vực thật cần thiết và chủ yếu dưới hình thức công ty cổ phần.

Xác định rõ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Gắn trách nhiệm và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Thực hiện quy chế hội đồng quản trị tuyển chọn giám đốc điều hành doanh nghiệp. Lành mạnh hóa tài chính và lao động; kiên quyết xử lý những doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thua lỗ theo quy định của pháp luật.

Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước thực hiện chức năng đầu tư vốn cho doanh nghiệp nhà nước và làm đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các công ty, tổng công ty nhà nước đã cổ phần hóa và các doanh nghiệp nhà nước độc lập chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn.

Quy định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước và của đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Thu hẹp và tiến tới không còn chức năng của các Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.

Tiếp tục phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể

Tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình kinh tế tư nhân đầu tư phát triển theo quy định pháp luật. Thực sự bình đẳng để các doanh nghiệp tư nhân được tiếp cận các nguồn vốn và được đáp ứng thuận lợi nhu cầu sử dụng đất. Khuyến khích phát triển và hình thành các doanh nghiệp lớn của tư nhân có nhiều chủ sở hữu với hình thức công ty cổ phần. Có chính sách thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển.

Đổi mới chính sách để khuyến khích, thúc đẩy phát triển mạnh các loại hình kinh tế tập thể với những hình thức hợp tác đa dạng, tự nguyện, đáp ứng nhu cầu của các thành viên, phù hợp với trình độ phát triển của các ngành nghề, trên các địa bàn.

Bảo vệ tài sản hợp pháp của công dân và doanh nghiệp. Loại bỏ các quy định pháp luật không phù hợp về việc khám xét nơi ở và làm việc, tịch thu hoặc tạm giữ tài sản của công dân và doanh nghiệp. Phải đền bù thích đáng cho công dân và doanh nghiệp về những thiệt hại do các quyết định trái pháp luật gây ra.

Đổi mới chính sách đầu tư, chính sách tài chính và đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch

Đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư, xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử để khai thác có hiệu quả các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Hoàn thiện thể chế, tăng cường hiệu lực quản lý để bảo đảm đầu tư của Nhà nước có hiệu quả, khắc phục nhanh tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí.

Xây dựng đồng bộ thể chế tài chính phù hợp với thể chế kinh tế thị trường. Đổi mới chính sách quản lý tài chính nhằm tiếp tục khơi thông, giải phóng và phân bổ hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; phát triển nền tài chính quốc gia vững mạnh, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của nền tài chính Việt Nam.

Chính sách tiền tệ trong 5 năm tới nhằm mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an ninh hệ thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa để ổn định kinh tế vĩ mô, tăng dự trữ ngoại tệ, khuyến khích doanh nghiệp và nhân dân tiết kiệm, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.

Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu chiến lược, công tác quy hoạch, kế hoạch, đặc biệt coi trọng các chỉ tiêu và biện pháp về chất lượng phát triển. Gắn kết chiến lược, quy hoạch với kế hoạch; nâng cao tính khoa học, công khai, minh bạch, bảo đảm cho chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thực sự là công cụ điều hành có hiệu quả của Nhà nước, thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư và nhân dân.

8. Đẩy mạnh cải cách hành chính công, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước; thực hiện đồng bộ, kiên quyết các giải pháp để phòng, chống tham nhũng

­Về cải cách hành chính công

Đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cả các mặt: hệ thống thể chế; tổ chức bộ máy; chức năng, nhiệm vụ; cán bộ, công chức; phương thức hoạt động. Định rõ những việc Nhà nước phải làm và bảo đảm đủ các điều kiện để làm tốt; hiện đại hóa nền hành chính nhà nước.

Điều chỉnh chức năng của Chính phủ đúng với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; xác định phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển; Chính phủ tập trung vào việc hoạch định thể chế, chính sách, xây dựng giải pháp, cải cách thủ tục hành chính, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, xã hội; nâng cao năng lực và hiệu quả chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, thanh tra. Xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội của cơ quan công quyền các cấp.

Cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm đầu mối, phù hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước các cấp, giảm cấp phó, bỏ cấp trung gian; giảm bộ phận phục vụ trong cơ quan hành chính, chuyển sang hình thức hợp đồng dịch vụ; phân cấp mạnh cho cấp dưới gắn với việc hướng dẫn và thực hiện thanh tra, kiểm tra của cấp trên.

Điều chỉnh cơ cấu chính quyền địa phương cho phù hợp với những thay đổi chức năng, nhiệm vụ. Phân biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị để tổ chức bộ máy phù hợp, nghiên cứu việc giảm bớt Hội đồng nhân dân cấp quận. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và kiểm tra hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở.

Đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ công vụ rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ hưởng thụ thỏa đáng và công bằng. Thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ và phục vụ dân đối với các cơ quan và công chức nhà nước.

Nghiên cứu áp dụng cơ chế thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên bổ nhiệm chức danh người đứng đầu cơ quan hành chính cấp dưới. Tách các hoạt động công quyền với các hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng để các tổ chức cung ứng dịch vụ công cộng thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính.

Phát huy sự đa dạng về tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ trong việc tham gia xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Ban hành Luật về hội; phát triển nhiều hình thức tự quản của nhân dân hoạt động theo pháp luật.

Về phòng, chống tham nhũng

Phải kiên trì thực hiện tốt vừa xây, vừa chống trong phòng, chống tham nhũng. Khẩn trương xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ về phòng ngừa, phát hiện và xử lý những người có hành vi tham nhũng.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế để thực hiện đầy đủ nguyên tắc Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật. Khẩn trương rà soát để giảm đến mức thấp nhất quan hệ "xin - cho". Thực hiện công khai, minh bạch trong mua sắm công và quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; trong quản lý tài chính và ngân sách nhà nước, huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân; quản lý doanh nghiệp nhà nước; quản lý và sử dụng đất, tài sản công; công tác cán bộ.

Tiếp tục cải cách mạnh thủ tục hành chính, phân cấp và làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng đơn vị và người đứng đầu cơ quan; thu gọn đầu mối trong việc giải quyết mọi công việc hành chính với dân và doanh nghiệp; công khai các quy định về thủ tục hành chính để dân biết, thực hiện và giám sát. Tiếp tục đổi mới chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức. Có quy định về kiểm tra, giám sát thu nhập của cán bộ, công chức.

Xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai cán bộ, công chức tham nhũng, không phân biệt địa vị xã hội, còn đương chức hay đã nghỉ việc. Thiết lập cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng; đồng thời xử lý nghiêm những người bao che tham nhũng, ngăn cản việc chống tham nhũng, hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, ám hại người khác. Đẩy mạnh phối hợp và hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.

Trước mắt cần tập trung làm tốt các việc sau đây:

- Điều tra, xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai các vụ tham nhũng đã được phát hiện; ban hành quy định và xử lý thích đáng, đúng pháp luật người đứng đầu cơ quan, đơn vị nơi xảy ra tham nhũng, gây hậu quả nghiêm trọng.

- Khẩn trương triển khai thực hiện đồng bộ Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Bổ sung, hoàn thiện Luật Khiếu nại và tố cáo. Ban hành các quy định cụ thể về thu, chi ngân sách. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở đơn vị cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công và doanh nghiệp nhà nước.

- Sớm hình thành và triển khai hoạt động có hiệu quả của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng ở Trung ương. Các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị phải xây dựng chương trình hành động phòng, chống tham nhũng; nói ít, làm nhiều và làm kiên quyết, triệt để. Tập trung chỉ đạo kiểm tra, thanh tra việc quản lý đất đai; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý tài chính trong doanh nghiệp nhà nước; thu, chi ngân sách nhà nước; quản lý tài sản công; công tác quy hoạch; công tác tuyển dụng, đề bạt, bố trí cán bộ.

Thưa các đồng chí và các vị đại biểu Quốc hội,

Trước tình hình và nhiệm vụ mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các quốc gia, các dân tộc trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Khẩn trương chuẩn bị tốt mọi mặt để tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC vào tháng 11 năm 2006.

Trong khi tập trung sức cao nhất cho phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta vẫn phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, tăng cường quốc phòng, an ninh, thực hiện có hiệu quả chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, chủ động và kiên quyết bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Thưa các đồng chí và các vị đại biểu Quốc hội,

Bước vào thực hiện nhiệm vụ năm 2006, cùng với những thuận lợi cơ bản, chúng ta phải đối phó với không ít khó khăn, nhất là biến động của giá cả trên thị trường thế giới và dịch cúm gia cầm... Nhưng bằng sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cộng đồng doanh nghiệp, nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm tiếp tục ổn định và chuyển biến tích cực; sản xuất công nghiệp tăng khá cao; lĩnh vực dịch vụ có nhiều tiến bộ; kim ngạch xuất khẩu tăng cao; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt khá; thu chi ngân sách nhà nước bảo đảm tiến độ; kiểm soát được giá cả thị trường; các mặt hoạt động xã hội có bước tiến bộ...[1]. Mặt khác, bên cạnh những yếu kém, khuyết điểm mà chúng ta đang phải ra sức khắc phục, cũng đã xuất hiện thêm những khó khăn, phức tạp mới, đặc biệt là giá cả xăng, dầu tăng cao đã có tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống.

Nhiệm vụ còn lại của năm 2006 là rất nặng nề. Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo, bám sát tình hình, có các giải pháp kịp thời, thích hợp, trước hết là việc kiểm soát giá cả, dịch bệnh và tập trung sức chỉ đạo thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra bảo đảm cho phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời yêu cầu các cấp, các ngành nâng cao hơn nữa trách nhiệm, tính năng động sáng tạo và hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ của mình.

Cùng với sự nỗ lực cao nhất để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2006, Chính phủ sẽ khẩn trương xây dựng chương trình hành động để triển khai thực hiện toàn diện Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 mà Quốc hội sẽ quyết nghị thông qua trong kỳ họp lần này.

Chính phủ xin trân trọng đề nghị Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và đồng chí, đồng bào trong cả nước, tăng cường giám sát, hợp tác và cùng nhau chung sức, chung lòng, nỗ lực phấn đấu tận dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, tạo sự chuyển biến đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa trên các mặt để hoàn thành thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 và cả Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, đưa Nghị quyết Đại hội X của Đảng thành hiện thực trong cuộc sống.

Xin cảm ơn các đồng chí và các vị đại biểu.