• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Giáo dục, Y tế: Phát huy thành tựu sau Cách mạng tháng Tám

(Chinhphu.vn) - 68 năm sau Cách mạng tháng Tám 1945, sự nghiệp giáo dục, y tế đã đạt được nhiều thành tựu, khẳng định tính ưu việt của Nhà nước ta. Tuy nhiên, để đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, giáo dục, y tế cần tiếp tục thực hiện đổi mới toàn diện.

20/08/2013 09:20

Giáo dục - đào tạo: Quốc sách hàng đầu

Để dễ bề thống trị nhân dân ta, thực dân phong kiến đã áp dụng chính sách ngu dân, do vậy, trước Cách mạng, trên 90% dân số Việt Nam bị mù chữ. Tuy cả nước có 5.755 trường phổ thông, nhưng có tới 5.680 trường là tiểu học và vỡ lòng; chỉ có 72 trường trung học cơ sở và 3 trường trung học phổ thông. Cả nước chỉ có 4 trường trung cấp chuyên nghiệp với 175 giáo viên và khoảng 3 nghìn học sinh. Tổng số người đi học khoảng 725.000 người, bình quân 1 vạn dân chỉ có 321 người được đi học, trong đó, số con em người lao động là rất hiếm.

Giáo dục - đào tạo được Đảng, Nhà nước coi là quốc sách hàng đầu

Ngay sau khi giành chính quyền, nhân dân ta cùng một lúc phải chống 3 thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Ngay từ những năm kháng chiến chống Pháp và và trong những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước đã đưa hàng vạn con em người lao động đi học tập, đào tạo ở nước ngoài để chuẩn bị cho công cuộc kiến thiết đất nước sau này.

Về tư duy, nhận thức, nếu khoa học, công nghệ là động lực của tăng trưởng và phát triển đất nước, thì giáo dục, đào tạo là chìa khoá của khoa học, công nghệ; giáo dục, đào tạo luôn được coi là quốc sách hàng đầu. Các tư duy, chủ trương trên đều  xuất phát từ vai trò của giáo dục đào tạo.

Hiện nay, tất cả 63/63 tỉnh, thành phố đều đã đạt phổ cập trung học cơ sở; có 57/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi.

Để thực hiện mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ 2011- 2020 là đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thì việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở phát triển khoa học- công nghệ và giáo dục- đào tạo là một trong ba đột phá chiến lược. Phải đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.

Thực hiện tốt 3 khâu đột phá Chiến lược mà Đại hội XI của Đảng đề ra là nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ nhiệm kỳ 2011- 2016. Do vậy, trong 5 năm này, việc xây dựng và  triển khai chương trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục đã và đang được tập trung triển khai theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt.

Đặc biệt coi trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Lấy nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo làm trục xoay chính, kết hợp với mở rộng quy mô hợp lý. Quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính; thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội.

Y tế và đời sống được quan tâm phát triển

Trước cách mạng, cả nước chỉ có 771 cơ sở khám chữa bệnh, chủ yếu tập trung ở thành thị và phục vụ chủ yếu cho bộ máy cai trị của thực dân, phong kiến. Tổng số giường bệnh của cả nước chỉ có 13,9 nghìn, bình quân 1 vạn dân có 6,1 giường. Cả nước có 212 bác sỹ, bình quân 1 vạn dân chỉ có 0,094 bác sỹ. Cả nước chỉ có 439 y sỹ, số dược sỹ trung cấp và cao cấp của cả nước chỉ có 32 người. Số người chết hàng năm vì đói rét, ốm đau không ít, mặc dù tỷ lệ sinh rất cao. Tuổi thọ thấp.

BV Vân Đình (huyện Ứng Hòa), nơi Bác Hồ về thăm ngày 20/4/1963, từ một bệnh xá đến nay đã trở thành BV đa khoa hạng II của TP Hà Nội, với nhiều kỹ thuật hiện đại, chuyên sâu của tuyến trên được đưa vào phục vụ việc khám chữa bệnh cho nhân dân địa phương. Ảnh: Sở Y tế Hà Nội

Sau cách mạng, sự nghiệp y tế được quan tâm phát triển.

Cả nước hiện có 13.239 cơ sở khám, chữa bệnh, với 275.100 giường bệnh; bình quân 1 vạn dân có 24,9 giường bệnh (không kể số giường của trạm y tế xã, phường, thị trấn và trạm y tế các cơ quan doanh nghiệp). Tổng số bác sỹ là 73.700 người; bình quân 1 vạn dân có 8,3 bác sỹ. Cả nước có 58.700 y sỹ, 100.300 cán bộ điều dưỡng, 30.100 nữ hộ sinh, 10.300 dược sỹ cao cấp, 30.300 dược sỹ trung cấp, 7.500 dược tá.

Với hệ thống y tế được phát triển, nên việc phòng chống dịch bệnh đã đạt được những kết quả tích cực. Số người được bảo hiểm y tế tăng nhanh trong những năm gần đây. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em đã giảm. Tuổi thọ của người dân tăng nhanh- hiện đạt 73 tuổi, đứng thứ 6/11 nước ở Đông Nam Á, 26/51 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á và 120/210 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Kết quả nổi bật về mặt xã hội là giảm tỷ lệ đói nghèo. Tỷ lệ nghèo chung theo chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới đã giảm nhanh (năm 2002 là 28%, năm 2004 là 19,5%, năm 2006 là 16%, năm 2008 là 14,5%); theo chuẩn nghèo thời kỳ 2006- 2010 cũng giảm khá (năm 2004 là 18,1%, năm 2006 là 15,5%, năm 2008 là 13,4%); theo chuẩn nghèo mới (thời kỳ 2011- 2015) cũng giảm (từ 14,2% năm 2010 còn 11,4% năm 2012).

Nền kinh tế mà Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh – tất cả là vì con người, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Mặc dù phải tập trung cho mục tiêu ưu tiên là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô trong điều kiện cân đối ngân sách còn khó khăn, nhưng Nhà nước vẫn quan tâm đến việc phát triển các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Minh Ngọc