Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Đây là khẳng định của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải (GTVT) Nguyễn Văn Thắng tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 24-NQ-TW ngày 7/10/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và xúc tiến đầu tư vùng ( ngày 26/11).
Dự báo nhu cầu vận tải vượt xa năng lực đáp ứng
Vùng Đông Nam Bộ có đầy đủ 05 phương thức vận tải bao gồm: Đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải và hàng không. Giai đoạn 2010-2020, được sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của vùng Đông Nam Bộ đã có sự thay đổi rõ rệt. Hệ thống hạ tầng cảng biển và đường thủy nội địa đã cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải. Hạ tầng hàng không sẽ cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải sau khi đưa vào khai thác Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1, nhà ga T3-Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất và nâng cấp sân bay Côn Đảo.
Tuy nhiên, dự báo nhu cầu vận tải trong giai đoạn đến năm 2030 cho thấy vùng Đông Nam Bộ có nhu cầu vận tải vượt xa so với năng lực đáp ứng của hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông. Giao thông vùng vẫn còn nhiều hạn chế, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Vùng, đặc biệt là hạ tầng giao thông kết nối liên Vùng còn thiếu, yếu, chưa đồng bộ.
Các quốc lộ chính yếu (QL1, QL13, QL51, QL22, QL14) có nhiều đoạn đã mãn tải, trong khi hệ thống cao tốc liên vùng, hướng tâm, vành đai, các tuyến nối cảng biển, cảng hàng không và các cửa khẩu quốc tế là trục xương sống của hệ thống đường bộ đang triển khai rất chậm, chỉ mới đưa vào khai thác 95 km/911 km cao tốc theo quy hoạch.
"Điều này dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông, đặc biệt tại các cửa ngõ ra vào thành phố, tại các tuyến kết nối đến cảng biển, cảng hàng không ngày càng nghiêm trọng. Hệ thống đường bộ, đường sắt đô thị vẫn là "nút thắt" ảnh hưởng đến sự phát triển và năng lực cạnh tranh của Vùng", Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nhấn mạnh.
Cũng theo "tư lệnh"ngành GTVT, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này do: (i) công tác lập quy hoạch thiếu tính liên kết, chưa đồng bộ giữa các chuyên ngành; (ii) kế hoạch đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giữa các địa phương trong Vùng còn thiếu đồng bộ, chưa chú trọng đến kết nối vùng, liên vùng; (iii) thiếu các cơ chế, chính sách đột phá trong huy động nguồn lực và nguồn lực đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông còn hạn chế; (iv) chưa đẩy mạnh công tác phân cấp về đầu tư, quản lý khai thác hạ tầng giao thông; (v) việc kêu gọi đầu tư theo phương thức PPP các dự án giao thông vận tải chưa thực sự hiệu quả.
Khoảng 413.000 tỷ đồng đầu tư 772 km đường cao tốc cho Vùng
Phấn đấu nâng tổng số km đường bộ cao tốc vùng là 772 km trong giai đoạn 202-2030, trên cơ sở Quy hoạch mạng lưới đường bộ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ GTVT dự kiến tổng nhu cầu vốn đầu tư cho các tuyến đường bộ cao tốc kết nối vùng Đông Nam Bộ khoảng 413.000 tỷ đồng.
Trong đó, giai đoạn 2021-2026, tập trung đầu tư hoàn thành các tuyến đường bộ cao tốc quan trọng có tính chất liên vùng và kết nối với sân bay Long Thành, cảng Cái Mép-Thị Vải với tổng nhu cầu vốn khoảng 167.746 tỷ đồng. Giai đoạn còn lại, phấn đấu hoàn thành đầu tư xây dựng các tuyến đường bộ cao tốc, vành đai trong Vùng theo quy hoạch được duyệt cụ thể là đường vành đai 4 TPHCM và các tuyến cao tốc, với tổng nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn này khoảng 250.165 tỷ đồng.
Nhấn mạnh nhiệm vụ đầu tư xây dựng các tuyến đường bộ cao tốc là hết sức cấp bách, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nêu một số giải pháp cần tập trung triển khai.
Một là, đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy sự năng động, sáng tạo của các tỉnh, thành phố trong Vùng trong công tác quy hoạch, quản lý, đầu tư; đẩy mạnh hợp tác, liên kết nội vùng, liên vùng.
Hai là, thực hiện phân cấp phân quyền mạnh mẽ, triệt để cho các địa phương trong công tác đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông do Trung ương quản lý trên địa bàn để phát huy tính chủ động của các địa phương trong huy động nguồn lực đầu tư.
Ba là, đề xuất cơ chế, chính sách sáng tạo, đột phá trong huy động vốn tư nhân, các nguồn vốn hợp pháp khác tham gia đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông.
Bốn là, kiện toàn bộ máy đủ năng lực để làm cơ quan chủ quản và chủ đầu tư các dự án đường bộ cao tốc; chỉ đạo quyết liệt công tác giải phóng mặt bằng và quản lý chặt chẽ hành lang an toàn giao thông; khai thác có hiệu quả quỹ đất gắn với các dự án đầu tư.
Năm là, các cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương phải chỉ đạo quyết liệt đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng đối với các dự án đường bộ cao tốc đang triển khai trên địa bàn; tạo điều kiện thuận lợi về nguồn vật liệu, công bố giá kịp thời, sát thực tế để phục vụ triển khai các dự án đầu tư xây dựng; đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng, kịp thời đưa vào sử dụng các loại nguyên, vật liệu thay thế.
"Với sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, đặc biệt là các tuyến đường bộ cao tốc vùng Đông Nam Bộ sẽ được tiếp tục đẩy mạnh đầu tư, từng bước đồng bộ, hiện đại góp phần tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế-xã hội của Vùng Đông Nam Bộ, đồng thời duy trì và giữ vững vị trí đứng đầu cả nước về quy mô GRDP và thu ngân sách nhà nước", Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng tin tưởng./.
Minh Ngọc